BỘ
LAO ĐỘNG-BỘ NỘI VỤ-BỘ TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
21-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1956
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG
CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TĂNG LƯƠNG CHO CÔNG NHÂN, CÁN BỘ, VIÊN CHỨC.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ -
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG - BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính gửi
|
- Các Bộ,
- Các cơ quan Trung ương,
- Các Ủy ban Hành chính khu, liên khu, tỉnh, thành phố,
- Các Sở, Khu, Ty Lao động,
|
I. MỤC ĐÍCH Ý
NGHĨA
Trong hoàn cảnh kinh tế nước nhà
đang khôi phục, trước mắt còn nhiều khó khăn, vật giá gần đây có tăng lên ở Hà
nội và một số địa phương đã ảnh hưởng đến đời sống công nhân, bộ đội, cán bộ và
viên chức cũng như đời sống chung của nhân dân.
Để giảm bớt khó khăn và nâng lên
một phần sinh hoạt của công nhân, bộ đội, cán bộ và viên chức, Hội đồng Chính
phủ đã quyết nghị:
Về công nhân, cán bộ và viên chức:
“Kể từ tháng 10 năm 1956 tăng 5%
lương cơ sở 26.000đ cho cán bộ, công nhân, viên chức kháng chiến.
Riêng Hà nội, khu mỏ Hồng gai
tăng 12%, Hải phòng tăng 8%.
Đồng thời Chính phủ cũng đã quyết
định trích một số gạo để giúp đỡ những gia đình không có phụ cấp còn đang gặp
khó khăn; nâng lương lao động các công trường theo 3 mức: 1.150đ, 1.250đ và
1.350đ một ngày; cấp phát áo rét, chăn, màn cho cán bộ, công nhân viên miền Nam
còn thiếu và cho anh em truy lĩnh lương công trường kể từ ngày 01 tháng 07 năm
1955; nghiên cứu khoản phụ cấp cho cán bộ kỹ thuật, khoa học, văn hóa, nghệ thuật;
xúc tiến việc hoàn thành sắp xếp cán bộ, công nhân, viên chức vào các thang
lương đã ban hành.
Trên đây là những biện pháp cấp
bách quy định tạm thời trong khuôn khổ chế độ tiền lương hiện nay nhằm giảm bớt
khó khăn và nâng một phần sinh hoạt cho công nhân, viên chức.
Để đảm bảo thi hành có kết quả tốt
các biện pháp nói trên, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ có trách nhiệm cố
gắng giữ giá những thứ hàng chính thường dùng hàng ngày, quản lý chặt chẽ ngân
sách, chống tham ô lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Trong hoàn cảnh nước nhà đang phải
vượt nhiều khó khăn để khôi phục kinh tế, hàn gắn những vết thương do 15 năm
chiến tranh và những thiên tai liên tiếp tàn phá, những biện pháp trên đây thể
hiện sự cố gắng lớn của Đảng và Chính phủ đối với cán bộ, công nhân, viên chức.
Các ngành, các cấp phải giải
thích rõ cho anh chị em biết để nâng cao lòng tin tưởng của anh chị em, thấy rõ
sự quan tâm của Đảng và Chính phủ mà phấn khởi sản xuất và an tâm công tác.
II. ĐỐI TƯỢNG
THI HÀNH VÀ CÁCH THI HÀNH
Nguyên tắc chung là khoản lương
5%, 8% hoặc 12% chỉ tính trên cơ sở lương chính theo các bậc trong thang lương,
không kể các khoản phụ cấp bản thân, như phụ cấp khu vực. Khoản phụ cấp đắt đỏ
1.000đ ấn định trong thông tư Liên bộ số 22-TT-LB ngày 27-8-1956 nay phá bỏ kể
từ ngày 01-10-1956.
Các khoản phụ cấp khu vực 6%,
13%, 20% vẫn thi hành. Khoản phụ cấp 5,8% của Hà nội nay tính gọn 6%. Như vậy cộng
khoản tăng lương mới ở các địa phương với phụ cấp khu vực thì lương chính sẽ được
nâng lên như sau:
Khu vực 1: 5% + 20% = 25%.
Khu vực 2: 5% + 13% = 18%.
Khu vực 3: 6% + 5% = 11%.
Hà nội: 6% + 12% = 18%.
Khu mỏ Hồng gai: 12%.
Hải Phòng: 8%.
1. Đối với công nhân, nhân viên
hưởng theo chế độ lương kháng chiến cũ:
a) Đối với những người đã sắp xếp
vào các thang lương đã ban hành thì dựa trên mức lương của các bậc lương mà
tính. Ví dụ: một nhân viên bậc 13 (thang lương 17 bậc) công tác ở khu vực 2
(13%) thì lương và phụ cấp khu vực tính như sau:
33.800đ + (33.800đ X (5 + 13%) =
39.884đ
100
b) Đối với những người mới tạm xếp
hoặc chưa sắp xếp vào các thang lương hiện đang lĩnh lương theo các thang lương
18 và 25 bậc cũ có tạm ứng 5,40% ở các địa phương hoặc 50% ở Hà nội thì tạm thời
vẫn tính 5%, 8%, hoặc 12% trên cơ sở lương thực lĩnh hiện tại (kể cả tạm ứng 40
hoặc 50).
Về sau khi xếp bậc chính thức nến
lương mới cộng với 5%, 8%, hoặc 12% cao hơn lương thực lĩnh hiện nay sẽ được
truy lĩnh số tiền chênh lệch vì tăng lương kể từ ngày 01 tháng10 năm 1956. Ví dụ:
Một nhân viên ở Hà nội bậc 11 (thang lương 25 bậc cũ) đến nay còn lĩnh bằng 42c
+ 3c (phụ cấp đặc biệt) + 22c5 (50%) = 67c5. Tính thành tiền theo giá gạo tháng
12-1955 là 30.680đ. Nay tính thêm khoản tăng lương 12% thì thành tiền:
30.680đ + 30.680đ X 12 = 34.361đ
100
c) Đối với công nhân, nhân viên
hiện đang theo học dài hạn ở các trường, cũng được tăng 5%, 8% hoặc 12% theo
cách thức tính nói ở mục a và b trên đây.
d) Đối với cán bộ chủ lực cải
cách ruộng đất nay điều động về cơ quan doanh nghiệp, xí nghiệp công tác, nếu
chưa sắp xếp cấp bậc thì tính 5%, 8% hoặc 12% trên cơ sở mức lương tạm ứng định
cho anh em khi mới về nhận công tác ở xí nghiệp hay cơ quan, mà không tính trên
cơ sở cấp phí đã được hưởng trong thời gian cải cách ruộng đất. Khi sắp xếp
chính thức sẽ tính lại theo cách thức ở mục b nói trên.
e) Đối với cán bộ và quân nhân
phục viên chuyển ngành cũng có tăng nhưng sẽ có thông tư riêng.
g) Công nhân, cán bộ, nhân viên
công tác ở các Đại sứ quán ở các nước ngoài không tăng theo tỉ lệ trên.
2. Đối với công nhân, nhân viên
mới tuyển sau hòa bình và các xí nghiệp mới khôi phục đã hưởng lương theo chế độ
xí nghiệp khôi phục thì cũng được tăng (sẽ bổ sung sau).
Đối với những công nhân, nhân
viên kháng chiến cử làm việc trong các xí nghiệp khôi phục nói trên sẽ tính
theo cách thức nói ở mục 1.
3. Đối với những công nhân, viên
chức theo chế độ nguyên lương:
Đối với công nhân, nhân viên các
doanh nghiệp, xí nghiệp và cơ quan đã được sắp xếp vào các thang lương, nếu
lương hiện lĩnh thấp hơn lương của công nhân kháng chiến cùng một bậc đã được
tăng 5%, 8% hoặc 12% cộng với phụ cấp khu vực thì được nâng lên bằng lương công
nhân kháng chiến.
Ví dụ: Một công nhân theo chế độ
nguyên lương ở Hà nội lương cũ là 42.000đ nay được xếp vào bậc 3 (sản nghiệp 3)
thì lương và phụ cấp tính như sau:
39.780đ + 39.780đ X (12 + 6) =
46.940đ
100
Người công nhân ấy sẽ được lĩnh
lương mới là 46.940đ.
Những xí nghiệp tiếp quản nào đã
được Liên bộ quy định cho hưởng lương theo chế độ lương khôi phục thì sẽ tính
khoản tăng lương theo cách thức nói ở mục 2.
Riêng đối với công nhân theo chế
độ nguyên lương ở mỏ than Hồng gai trong khi chưa tiến hành sắp xếp kịp người
nào hưởng lương từ 60.000đ trở xuống thì tạm thời cho tăng 5% trên cơ sở lương
thực lĩnh hiện nay.
Những công nhân, nhân viên kháng
chiến cũ làm việc trong các xí nghiệp tiếp quản kể cả Hồng gai sẽ được hưởng
5%, 8% hoặc 12% theo cách thức tính ở mục 1. Công nhân, công chức tại các cơ
quan theo chế độ nguyên lương mà lương còn thấp sẽ có thông tư riêng.
4. Đối với công nhân công nhật,
tạm tuyển, phụ động, hưởng lương khoán theo hợp đồng:
a) Công nhân, nhân viên hưởng
lương công nhật: lấy lương tháng (không kể các khoản phụ cấp) nhưng với 5%, 8%
hoặc 12% rồi chia cho 25 ngày để tính lương ngày hoặc trên cơ sở lương ngày lâu
nay đã định (không kể các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ) mà nhân 5%, 8% hoặc
12%.
b) Công nhân, nhân viên phụ động,
tạm tuyển hưởng lương công nhật hay lương tháng đều được hưởng 5%, 8% hoặc 12%
tính theo lương chính hàng ngày hay hàng tháng.
c) Đối với công nhân hưởng lương
khoán và lương theo hợp đồng thì không tính 5%, 8% hoặc 12% trên lương khoán và
lương hợp đồng hiện lĩnh mà sẽ căn cứ vào mức tăng lương chung xét định lại mức
lương khoán hoặc lương theo hợp đồng.
d) Đối công nhân, nhân viên hưởng
lương khoán hay một khoản tiền tạm ứng (như Việt kiều, nhân viên mới tuyển dụng
sau ngày tiếp quản thành phố) thì không tính 5%, 8% hoặc 12% trên lương hiện
lĩnh, cụ thể người nào xét mức lương còn thấp thì sẽ được nâng lên sau.
e) Công nhân lao động đã được
nâng lương kể từ 01-10-1956 (Thông tư Liên Bộ Lao động, Tài chính số 16-TT-LB
ngày 27-10-1956) nên không thi hành các mức tăng lương 5%, 8% hoặc 12%.
f) Học sinh ở các trường hưởng
theo chế độ học bổng thì không tăng theo những tỷ lệ trên.
5. Cách tính
5%, 8%, 12% trong trường hợp đi công tác hoặc điều động từ địa phương mức tăng
lương thấp đến địa phương mức tăng lương cao hoặc ngược lại:
a) Từ nơi mức tăng lương thấp đến
nơi mức tăng lương cao:
- Thời gian ở lại công tác dưới 10
ngày, không tính theo mức tăng lương ở nơi cao.
- Thời gian ở lại công tác từ 10
đến dưới 20 ngày tính bằng 1/2 tháng để hưởng mức tăng lương ở nơi cao.
- Thời gian ở lại công tác từ 20
đến 30 ngày được tính bằng 1 tháng để hưởng mức tăng lương ở nơi cao. Trên 1
tháng ở lại công tác thêm ngày nào được hưởng thêm ngày ấy.
b) Từ nơi mức tăng lương cao đén
nơi mức tăng lương thấp:
- Nếu điều động đi công tác có
tính chất tạm thời dưới 3 tháng thì vẫn được hưởng mức tăng lương ở nơi cao.
- Nếu điều động đi công tác từ 3
tháng trở lên thì hưởng mức tăng lương nơi thấp bắt đầu từ tháng thứ 4.
c) Trường hợp điều động đi công
tác hẳn:
- Trường hợp này thì cắt ngay mức
tăng lương ở nơi cũ kể từ ngày công nhân, nhân viên rời nơi đó và cho hưởng
ngày mức tăng lương ở nơi mới.
Thông từ thi hành kể từ ngày 01
tháng 10 năm 1956.
Đề nghị các Bộ các Ủy ban Hành
chính các cấp, các ngành tích cực lãnh đạo đôn đốc các cơ quan, xí nghiệp,
doanh nghiệp thi hành được nhanh và tốt.
Trong khi hướng dẫn thi hành cần
chú ý:
1) Giải thích phổ biến mục đích
ý nghĩa của việc tăng lương lần này, làm cho mỗi công nhân, cán bộ, nhân viên
thông cảm với những khó khăn chung hiện nay, thấy rõ trong hoàn cảnh sản xuất
còn gặp nhiều khó khăn, nạn thất nghiệp chưa giải quyết hết, đời sống của nhân
dân còn thiếu thốn, không thể tăng nhiều một làn mà chỉ có thể cải thiện dần dần.
Trong việc nâng sinh hoạt của công nhân, nhân viên cũng không nên chỉ nhìn một
mặt vào việc tăng lương mà cần thấy các biện pháp khác như: trợ cấp gạo cho những
gia đình gặp khó khăn và những người không theo chế độ phụ cấp con, cấp phát
chăn, màn, áo rét cho anh chị em miền Nam, truy lĩnh cho công nhân lao động các
công trường, ngoài những biện pháp giải quyết tạm thời trước mắt, Đảng và Chính
phủ đã có chủ trương giải quyết một cách lâu dài và toàn diện hơn: Hội đồng
Chính phủ đã giao cho các Bộ có trách nhiệm nghiên cứu một chế độ lương hợp lý
hơn, có tác dụng khuyến khích sản xuất nhiều và cải thiện dần sinh hoạt của
công nhân và nhân viên theo đường lối phát triển kinh tế có kế hoạch. Có như vậy
mới thấy rõ sự cố gắng, chăm lo của Đảng và Chính phủ đến đời sống của công
nhân, cán bộ và viên chức mà đề cao tinh thần trách nhiệm ra sức thi đua sản xuất
và công tác.
2) Để nâng sinh hoạt của công
nhân, cán bộ và viên chức thì việc tăng lương chưa đủ. Các thủ trưởng cơ quan
và ban quản đốc xí nghiệp, công trường, nông trường phải cùng với chi bộ và
công đoàn hết sức chăm nom đến việc tổ chức đời sống của công nhân, cán bộ và
viên chức, lãnh đạo chi tiêu có kế hoạch, kiên quyết thực hành tiết kiệm chống
tham ô lãng phí. Phải thi hành mọi biện pháp mà điều kiện hiện nay có thể làm
được để tổ chức đời sống vật chất và tinh thần tại các xí nghiệp, công trường,
doanh nghiệp, cơ quan được tốt.
BỘ
TRƯỞNG
BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|
BỘ
TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
Lê Văn Hiến
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Phạm Văn Bạch
|