BỘ
CÔNG NGHIỆP-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
05-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 11 năm 1956
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
VỀ THỂ LỆ QUẢN LÝ TIỀN MẶT CỦA CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH THUỘC
BỘ CÔNG NGHIỆP
Để chấp hành nghị định số
169-TTg ngày 1-5-1952
và thông tư số 622-TTg ngày 27-11-1955
của Thủ Tướng Chính phủ về quản lý tiền mặt, Liên Bộ Công nghiệp, Ngân
hàng Quốc gia quy định biện pháp thực hiện việc quản lý tiền mặt đối với các xí
nghiệp quốc doanh thuộc Bộ Công nghiệp, theo các điều mục sau đây:
MỤC I: MỞ TÀI
KHOẢN VÀ TẬP TRUNG TIỀN MẶT VÀO NGÂN HÀNG
Điều 1: Tất
cả các Cục, Phân Cục, Sở, các xí nghiệp quốc doanh, các phân xưởng thuộc Bộ
Công nghiệp có kế toán tài chính độc lập đều phải mở tài khoản, gửi kinh phí tiền
mặt và séc vào Ngân hàng.
Mỗi xí nghiệp, mỗi đơn vị có thể
mở một hoặc nhiều tài khoản tuỳ theo tính chất hoạt động của mỗi đơn vị.
Điều 2: Các
xí nghiệp lợi ích công cộng, các xí nghiệp sản xuất có thu nhập tiền mặt hay
séc, hàng ngày phải nộp tất cả tiền mặt và séc đã thu được vào Ngân hàng, không
được giữ tại quỹ quá mức đã định. Những xí nghiệp các thành phố lớn hoặc ở xa
Ngân hàng trong vòng 10 cây số, phải nộp tiền thu hàng ngày vào Ngân hàng, chậm
nhất là ngày hôm sau.
Đối với những xí nghiệp ở xa
Ngân hàng ngoài 10 cây số, sẽ tuỳ theo xa gần và số tiền thu nhập hàng ngày mà
Ngân hàng địa phương và xí nghiệp ấn định mức tiền và thời gian nộp.
Điều 3: Việc
sắp xếp đóng gói bạc, dựa theo quy cách của Ngân hàng đã quy định.
Điều 4: Hàng
quý và hàng tháng các xí nghiệp phải lập kế hoạch thu chi tiền mặt gửi cho Ngân
hàng và cung cấp cho Ngân hàng các tài liệu về sản xuất và tiêu thụ để Ngân
hàng có cơ sở thẩm tra lại kế hoạch tiền mặt của đơn vị cho chính xác. Kế hoạch
tiền mặt phải làm đúng theo mẫu và các mục trong mẫu của Ngân hàng đã quy định.
Khi có những khoản chi tiêu bất
thường chưa ghi vào kế hoạch thì đơn vị phải làm kế hoạch bổ sung gửi cho Ngân
hàng.
MỤC II:THANH
TOÁN BẰNG CHUYỂN KHOẢN VÀ CHUYỂN TIỀN
Điều 5:
Mỗi khoản giao dịch mua bán giữa xí nghiệp với các công ty Mậu dịch quốc doanh,
các cơ quan, đoàn thể, bộ đội hay giữa xí nghiệp với nhau đều phải thanh
toán bằng chuyển khoản của Ngân hàng, nhất thiết không được cho nhau vay mượn,
trả nợ, thanh toán bằng tiền mặt.
Để tiết giảm chi tiêu tiền mặt,
tất cả các nguyên vật liệu, máy móc dụng cụ phải tranh thủ mua của Mậu dịch và
xí nghiệp quốc doanh để thanh toán bằng chuyển khoản; trường hợp các xí nghiệp
Nhà nước không có hàng mới mua ở ngoài.
Điều 6:
Mỗi việc điều động vốn của Bộ, các Cục cho xí nghiệp hoặc từ xí nghiệp này cho
xí nghiệp khác đều phải qua Ngân hàng, không được chuyển vận tiền mặt.
Ở những tỉnh mà Ngân hàng không
có kho phát hành, các xí nghiệp được chuyển vận tiền mặt đến nơi đó hoặc từ nơi
đó đi. Đến nơi, xí nghiệp phải gửi ngay số tiền mặt đó vào Ngân hàng để rút ra
chi tiêu theo kế hoạch, không được giữ tại xí nghiệp.
Điều 7:
Khi có những việc xin trích tài khoản thanh toán giữa các Cục, các xí nghiệp với
nhau hay với cơ quan đơn vị khác có tài khoản ở Ngân hàng, Ngân hàng phải đảm bảo
thanh toán nhanh chóng, chậm lắm là ngày hôm sau phải làm xong các thủ tục (trừ
ngày nghỉ) và gửi giấy báo cáo cho các đơn vị hữu quan biết.
Điều 8:
Mỗi khi các xí nghiệp xin trích tài khoản để chuyển tiền, Ngân hàng phải làm
xong các thủ tục, chậm lắm là hết ngày hôm sau (trừ ngày nghỉ) phải gửi xong giấy
chuyển tiền đi.
Khi nhận được giấy chuyển tiền đến
cho các xí nghiệp, Ngân hàng phải ghi ngay vào tài khoản cho các xí nghiệp được
hưởng và ngày hôm sau (trừ ngày nghỉ) phải gửi giấy "báo có" cho các
xí nghiệp ấy.
Điều 9:
Tuỳ theo điều kiện và sự thoã thuận của các cơ quan, xí nghiệp, Ngân hàng có thể
ký hợp đồng với các xí nghiệp, cơ quan đương sự, đứng trung gian thanh toán nợ
nần trong việc giao dịch mua bán với nhau để đảm bảo việc thanh toán được kịp
thời, đẩy nhanh luân chuyển vốn của các xí nghiệp.
MỤC III: RÚT
TIỀN MẶT VÀ MỨC TIỀN GIỮ TẠI QUỸ
Điều 10: Căn
cứ vào kế hoạch thu chi tiền mặt và số tiền tồn khoản của mỗi xí nghiệp, Ngân
hàng phải đảm bảo cấp phát tiền mặt cho các xí nghiệp trên nguyên tắc tiết kiệm
tiền mặt đúng mức.
Các xí nghiệp dựa theo chế độ
phát lương cho cán bộ, công nhân viên trong xí nghiệp mình và số người hiện diện
mà rút tiền dần về dự chi, không rút quá mức. Số tiền lương của cán bộ công
nhân viên đi công tác vắng lâu ngày thì chưa nên rút về đọng tại quỹ.
Điều 11: Để
đảm bảo việc chi tiêu lặt vặt hàng ngày, các xí nghiệp được giữ tại quỹ một số
tiền mặt, dự chi đúng trong 3 ngày đối với các xí nghiệp ở trong thành phố còn
các xí nghiệp ở ngoài thành phố thì tuỳ theo ở xa hay gần Ngân hàng mà quy định
mức giữ quỹ cho sát khỏi trở ngại đến hoạt động của xí nghiệp. Các xí nghiệp và
Ngân hàng địa phương căn cứ vào phạm vi hoạt động và tình hình chỉ tiêu thực tế
của mỗi xí nghiệp mà thảo luận với mỗi xí nghiệp ấn định mức cho hợp lý.
Điều 12:
Ngân hàng có nhiệm vụ theo dõi kiểm tra tồn quỹ của các xí nghiệp. Trường hợp số
tiền giữ tại quỹ lên quá mức đã quy định, Ngân hàng phải đôn đốc nộp. Khi đã
đôn đốc nộp nhiều lần mà xí nghiệp không chịu thực hiện. Ngân hàng lập biên bản
báo cáo lên trên (Ngân hàng trung ương, Bộ Công nghiệp) để giúp đỡ giải quyết.
Điều 13:
Các xí nghiệp có trách nhiệm theo dõi mức tồn quỹ của xí nghiệp mình, không để
đọng tiền mặt quá mức tại quỹ.
Các Cục thuộc Bộ Công nghiệp có
trách nhiệm đôn đốc giúp đỡ các xí nghiệp thực hiện đúng đắn việc nộp tiền vào
hoặc rút tiền ra, nhằm sử dụng và luân chuyển vốn Nhà nước một cách hợp lý và
có lợi.
Điều 14:
Khi có những khoản chi tiêu lớn bất thường, ngoài dự trù phải có sự thoả thuận
của Ngân hàng mới được rút tiền mặt, nhất thiết không được dùng tiền mặt mới
thu vào để chi ra, không qua Ngân hàng. Căn cứ theo đề nghị của đơn vị, Ngân
hàng có thể xét và cấp phát trước khi có kế hoạch bổ sung để điều khiển lại kế
hoạch.
Điều 15: Hàng
tháng Ngân hàng phải gửi cho xí nghiệp bản sao kê tài khoản để tiện cho việc
theo dõi tình hình thu chi và tồn khoản của xí nghiệp.
MỤC IV: THỜI
HẠN LẬP VÀ GỬI KẾ HOẠCH
Điều 16:
Thời hạn lập và gửi kế hoạch cho Ngân hàng quy định như sau:
1) Bộ Công nghiệp cung cấp cho
Ngân hàng Trung ương những tài liệu và chi tiêu về sản xuất và tiêu thụ của các
xí nghiệp thuộc Bộ (từng quý và năm). Các chi tiêu từng quý gửi vào tuần
kỳ 3 của tháng cuối quý trước.
2) Các xí nghiệp phải gửi đến
Ngân hàng địa phương nơi chịu sự quản lý:
- Kế hoạch thu chi tiền mặt hàng
tháng chia ra tuần kỳ 10 ngày một.
- Kế hoạch sản xuất từng quý
chia ra từng tháng.
- Kế hoạch thu chi tiền mặt hàng
tháng gửi vào ngày 25 tháng trước.
- Kế hoạch sản xuất từng quý gửi
vào tuần kỳ 3 của tháng cuối quý trước.
Điều 17:
Ngân hàng phải đảm bảo giữ bí mật cho các kế hoạch của xí nghiệp.
Điều 18:
Chế độ quản lý tiền mặt là một pháp lệnh của Chính phủ, các Cục, các xí nghiệp và
các chi nhánh Ngân hàng có trách nhiệm thi hành và coi đó là một kỷ luật tài
chính.
Để cho việc thi hành thông tư
này được thích hợp với tình hình nghiệp vụ, Bộ Công nghiệp và Ngân hàng Trung
ương sẽ ra chỉ thị quy định những biện pháp cụ thể áp dụng những nguyên tắc đã
nêu lên.
Các xí nghiệp, các chi nhánh
Ngân hàng đặt kế hoạch cụ thể sát với hoàn cảnh từng nơi, từng xí nghiệp, đề ra
nội quy công tác chi tiết được Ủy ban Hành chính địa phương thông qua để thi
hành.
BỘ
TRƯỞNG
BỘ CÔNG NGHIỆP
Lê Thanh Nghị
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG
QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|