BAN
TỔ CHỨC-CÁN BỘ CHÍNH PHỦ-BỘ TÀI CHÍNH-BỘ TƯ PHÁP-NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC-VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/TTLN
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 5 năm 1993
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ TƯ PHÁP-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỐI CAO- BAN TỔ CHỨC - CÁN BỘCHÍNH PHỦ - BỘ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAMSỐ 01/TTLN NGÀY 26 THÁNG 5 NĂM 1993 HƯỚNG DẪN VIỆCBÀN GIAO CÔNG
TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Để thực hiện điểm 5 Nghị quyết của
Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ nhất ngày 6-10-1992 về việc bàn giao công tác thi
hành án từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ và Pháp lệnh
thi hành án dân sự được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21- 4- 1993, Bộ
Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức-
Cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng đãn các địa
phương thực hiện việc bàn giao công tác thi hành án như sau:
I. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
1. Phạm vi bàn giao là toàn bộ
công tác thi hành án dân sự nói chung (kể cả quyết định về tài sản trong bản án
quyết định hình sự) trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc chuyển giao đồng bộ bao gồm:
toàn bộ sổ sách, hồ sơ kèm theo vật chứng, tài sản tạm giữ, các khoản tiền thi
hành án và án phí, biên bản kê biên tài sản và các biên bản, chứng từ, tài liệu
khác liên quan đến việc thi hành án;trường hợp xảy ra sự mất mát, hư hỏng, thiếu
hụt... thì Toà án phải lập biên bản, xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm cụ thể
và lưu đầy đủ vào hồ sơ thi hành án trước khi bàn giao, đồng thời việc này phải
được phản ánh rõ ràng trong biên bản tổng hợp bàn giao.
2. Để đảm bảo cho các cơ quan
thi hành án đi vào hoạt động bình thường từ ngày 1 tháng 7 năm 1993:
Chánh án Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) bàn giao cho
Giám đốc Sở Tư pháp nội dung công việc, cơ sở vật chất cần thiết, tổ chức bộ
máy, chấp hành viên, cán bộ hiện đang làm công tác thi hành án tại Toà án cấp tỉnh.
Chánh án Toà án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án nhân cấp huyện) bàn
giao cho Trưởng phòng Tư pháp hoặc người được Giám đốc Sở Tư pháp uỷ quyền (đối
với những nơi chưa có Phòng Tư pháp) nội dung công việc, cơ sở vật chất cần thiết,
tổ chức bộ máy, chấp hành viên, cán bộ hiện đang làm công tác thi hành án tại
Toà án cấp huyện.
Chánh án Toà án cấp tỉnh, Chánh
án Toà án cấp huyện và Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp đồng chịu
trách nhiệm và chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp, ngành hữu quan để việc tổ
chức bàn giao ở cấp tỉnh và huyện được nhanh gọn, chính xác.
3. Trước khi bàn giao phải thành
lập Hội đồng kiểm kê do Chánh án Toà án địa phương làm Chủ tịch Hội đồng kiểm
kê và xác định giá trị số tài sản, phương tiện.. sẽ bàn giao cho cơ quan thi
hành án cùng cấp.
II. NHỮNG NỘI
DUNG BÀN GIAO CỤ THỂ
1. Về cán bộ
a) Các chấp hành viên, cán bộ
làm công tác thi hành án chuyên trách tại các Toà án cấp tỉnh, cấp huyện từ trước
đến nay phải được bàn giao đầy đủ sang cơ quan thi hành án cùng cấp. Những cán
bộ khác kiêm nhiệm công tác thi hành án như kế toán, thủ kho, thủ quỹ, thư ký,
văn thư, đánh máy chữ... do Chánh án Toà án địa phương thoả thuận với Giám đốc
Sở Tư pháp để giải quyết.
Chánh án Toà án địa phương lập
danh sách chấp hành viên, cán bộ thi hành án chuyên trách và những người đã được
thoả thuận bàn giao nói trên để bàn giao cho cơ quan thi hành án, kèm theo hồ
sơ cá nhân từng cán bộ.
b) Đối với những người đến tuổi
nghỉ hưu trí, người hưởng chế độ mất sức, người bị buộc thôi việc..,thì giải
quyết ngay, không đưa vào danh sách bàn giao.
c) Trong trường hợp chấp hành
viên là thẩm phán ở cấp tỉnh, cấp huyện, thị do Chánh án và Giám đốc Sở Tư pháp
thoả thuận và báo cáo bằng văn bản về Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao để có
quyết định thích hợp.
2. Về trụ sở, phương tiện làm việc
a) Ở những nơi bộ phận thi hành
án đã được sắp vào một khu vực tương đối riêng biệt, thì cơ quan thi hành án tiếp
tục sử dụng.
b) Ở những nơi mà Toà án, Sở Tư
pháp, Phòng Tư pháp có điều kiện, thì bố trí ngay nơi làm việc cho cơ quan thi
hành án.
Trong trường hợp không bố trí được
thì Giám đốc Sở Tư pháp phối hợp với Chánh án Toà án cấp tỉnh, cấp huyện có
trách nhiệm đề nghị Uỷ ban nhân dân để bố trí nơi làm việc cho cơ quan thi hành
án.
c) Nơi nào chưa bố trí dược nơi
làm việc riêng cho cơ quan thi hành án, thì trước mắt cơ quan thi hành án vẫn
tiếp tục làm việc tại trụ sở của Toà án.
Trong trường hợp này thì Giám đốc
Sở Tư pháp, Chánh án Toà án cấp tỉnh, cấp huyện, thủ trưởng cơ quan thi hành án
địa phương có trách nhiệm liên hệ với Uỷ ban nhân dân để lập luận chứng kinh tế
và dự trù kinh phí trên cơ sở cân đối với khả năng của ngân sách địa phương và
phần kinh phí cần được Trung ương cấp, sau đó gửi về Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính
để có biện pháp giải quyết kịp thời.
d) Các loại phương tiện làm việc
như bàn, ghế, tủ, két hòm, máy tính để bàn, phương tiện giao thông.. đang phục
vụ thường xuyên cho công tác thi hành án, thì Toà án bàn giao cho cơ quan thi
hành án trên cơ sở nguyên canh. Khi bàn giao Toà án lập bản kê và tính theo gía
trị còn ghi sổ tới cuối ngày bàn giao để chuyển tăng giá trị tài sản cho cơ
quan thi hành án và giảm giá trị tài sản của Toà án.
Trong trường hợp bàn giao loại
phương tiện làm việc đang dùng mà cơ quan thi hành án vẫn thiếu phương tiện làm
việc, thì Uỷ ban nhân dân và cơ quan Tài chính địa phương có trách nhiệm cấp
thêm.
3. Về sổ sách, hồ sơ thi hành
án.
a) Tất cả các loại sổ sách về
thi hành án dân sự (kể cả các loại sổ sách về thi hành các quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hình sự) hiện đang được sử dụng đến ngày 30-6-1993 đều
phải được bàn giao cho cơ quan thi hành án. Trước khi bàn giao phải kết sổ, xác
định tổng số bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải đưa ra thi hành
(kể cả số lượng tồn đọng của những năm trước đay chưa được thi hành); số đã đưa
ra thi hành, số thi hành đều, số thi hành xong dứt điểm, số đang thi hành dở
dang, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành, trả lại đơn yêu cầu, số chưa đưa
ra thi hành..., thời điểm khoá sổ là ngày 30-6-1993. Việc kết sổ phải lập biên
bản có đủ chữ ký của Chánh án, chấp hành viên trưởng hoặc chấp hành viên phụ
trách bộ phận thi hành, kế toán, thủ kho, thủ quỹ thi hành án.
- Đối với những bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật thuộc loại Toà án phải chủ động ra quyết định
thi hành án hoặc đã có đơn yêu cầu, nhưng Toà án chưa ra quyết định thi hành,
thì Toà án phải lập bản kê đầy đủ kèm theo bản sao bản án, quyết định, đơn yêu
cầu và chuyển giao cho cơ quan thi hành án cùng cấp. Sau khi tiếp nhận, thủ trưởng
cơ quan thi hành án phải giải quyết ngay theo quy định của pháp lệnh thi hành
án dân sự.
- Đối với những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật không thuộc loại Toà án phải chủ động ra quyết định
thi hành án, đồng thời đương sự cũng chưa có đơn yêu cầu thi hành, thì Toà án lập
bản kê , kèm theo trích lục bản án, quyết định để bàn giao cho cơ quan thi hành
án quản lý theo dõi.
- Các loại sổ sách về thi hành
án đã sử dụng hết đã đưa vào lưu trữ, nếu xét thấy không liên quan đến việc thi
hành án hiện tại, thì không cần phải bàn giao.
Sau khi tiếp nhận bàn giao, cơ
quan thi hành án phải lập sổ mới và vào sổ thụ lý các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành, đang thi hành dở dang, hoãn, tạm
đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu..trừ các trường hợp bản án, quyết định đã bị đình
chỉ hoặc đã thi hành xong; đồng thời lập sổ theo dõi các bản án, quyết định đã
uỷ thác cho nơi khác thi hành.
b) Hồ sơ thi hành án. Về nguyên
tắc, chỉ bàn giao những hồ sơ về thi hành án dân sựvà quyết định về tài sản
trongcác bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc phần bảnán,
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. Hồ sơ thi hành
án được bàn giao phải có đầy đủ bản sao bản án, quyết định hoặc trích lục bản
án, quyết định, các quyết định về thi hành án, các biên bản bàn giao, xử lý vật
chứng, tài sản kê biên, tạm giữ, biên bản xác minh, các biên lai thu, phiếu
chi, chứng từ Ngân hàng Nhà nước... và tất cả các tài liệu liên quan đến việc
thi hành án. Các văn bản, tài liệu có trong hồ sơ phải được đánh số thứ tự từng
tờ và liệt kê đầy đủ vào bản danh mục kèm theo hồ sơ.
Các bản án, quyết định dân sự
chưa có hiệu lực thi hành, hồ sơ đã thi hành xong, hồ sơ đã quyết định đình chỉ
thi hành án, các quyết định thi hành án hình sự (trừ quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hình sự) không thuộc đối tượng bàn giao cho cơ quan
thi hành án dân sự. Toà án cần phân công một cán bộ quản lý, theo dõi việc này.
4. Đối với vật chứng, tài sản
tạm giữ, tài sản kê biên.
Về nguyên tắc, việc bàn giao từng
hồ sơ thi hành án phải kèm theo đầy đủ các vật chứng, tài sản tạm giữ, các khoản
tiền đã thu được cùng toàn bộ biên bản, chứng từ có liên quan đến hồ sơ vụ án.
Do đó, chỉ chuyển giao những vật chứng, tài sản, các khoản tiền cùng các tài liệu,
biên bản, chứng từ kèm theo của các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Các vật chứng, tài sản tạm giữ, các khoản tiền của các vụ án mà bản
án, quyết định chưa có hiệu lực thi hành vẫn để lại do Toà án tiếp tục quản lý,
theo dõi cho đến khi có quyết định mới.
Để thuận tiện cho việc bàn giao,
trứoc khi bàn giao Toà án cần rà soát,kiểm kê lại toàn bộ vật chứng, tài sản tạm
giữ và cần phân loại những vật chứng, tài sản thuộc các vụ án mà bản án, quyết
định đã có hiệu lực thi hành hoặc chưa có hiệu lực thi hành,Đối với những vật
chứng, tài sản kê biên tạm giữ các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
thi hành cần có biện pháp xử lý ngay theo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp phát hiện có sự mất
mát thiếu hụt, hư hỏng... cần lập biên bản, xác định nguyên nhân và quy rõ
trách nhiệm cụ thể. Đối với vật chứng, tài sản tạm giữ đang bị sử dụng trái
phép hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân mượn... Toà án phải nhanh chóng thu hồi
để bàn giao đủ cho cơ quan thi hành án.
Đối với vật chứng, tài sản và tiền..
của các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành hiện đang do cơ
quan hoặc cá nhân khác giữ chưa chuyển giao, hoặc chuyển giao chưa đầy đủ cho
Toà án, thì Toà án cần khẩn trương thu hồi. Nếu đến trước ngày 30-6-1993 vẫn
chưa thu hồi được, thì Toà án chuyển giao toàn bộ biên bản, chứng từ có liên
quan đến vật chứng, tài sản và tiền đó cho cơ quan thi hành án kèm theo hồ sơ
thi hành án; đồng thời làm văn bản thông báo ngay cho cơ quan, cá nhân đang quản
lý để họ có trách nhiệm chuyển thẳng cho cơ quan thi hành án.
Đối với vật chứng, tài sản là
vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ và tiền Việt Nam thuộc vụ án mà bản
án, quyết định đã có hiệu lực thi hành hiện đang gửi ở Kho bạc Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước, thì Toà án lập bản kê, kèm theo biên bản, chứng từ có liên quan
và bàn giao cho cơ quan thi hành án; đồng thời, hai bên phối hợp làm thủ tục
chuyển sang tài khoản thuộc cơ quan thi hành án.
5. Về hoạt động thu -chi tiền
thi hành án.
Nói chung, tất cả các loại sổ
sách về hoạt động thu - chi tiền thi hành án (sổ kế toán thi hành án, sổ quỹ, sổ
theo dõi tiền gửi Ngân hàng Nhà nước hay Kho bạc Nhà nước, sổ theo dõi các khoản
tiền nộp Ngân sách Nhà nước, tiền án phí, tiền gửi tiết kiệm...) cùng các quyển
biên lai thu, phiếu chi tiền, chứng từ... có liên quan đến hoạt động thi hành
án đều thuộc đối tượng bàn giao cho cơ quan thi hành án.
Đến ngày 30-6-1993 tất cả các loại
sổ sách về thu - chi tiền thi hành án phải được khoá sổ, cân đối quỹ tiền mặt
và tiền trên tài khoản tạm giữ, xác định số dư trên sổ đến cuối 30-6-1993, đồng
thời đối chiếu với chứng từ thu chi và kết quả kiểm quỹ tiền mặt, số dư trên
tài khoản tạm gửi cùng thời điểm. Kết quả kiểm kê, đối chiếu phải được lập
thành biên bản có chữ ký của Chánh án, chấp hành viên trưởng hoặc chấp hành
viên phụ trách bộ phận thi hành án, kế toán, thủ kho, thủ quỹ thi hành án. Trường
hợp có chênh lệch thiếu hụt hoặc dư thừa cần làm rõ nguyên nhân, xác định trách
nhiệm cụ thể. Đối với các khoản tiền thi hành án tạm ứng, vay, mượn hoặc bị chiếm
dụng trái phép, bị tham ô, thì Toà án cần kiên quyết thu hồi đầy đủ.
Số dư tiền thi hành án (tiền mặt
hoặc chuyển khoản) cần phải được phân tích cụ thể số tiền của từng vụ án mà bản
án, quyết định đã có hiệu lực thi hành hoặc chưa có hiệu lực thi hành, kèm theo
bản kê danh sách của từng vụ án cụ thể. Đối với số tiền mặt tồn quỹ đến cuối
ngày 30 -6 -1993 thuộc các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
hoặc đã có quyết định thi hành án, Toà án chuyển giao ngay cho cơ quan thi hành
án kèm theo biên bản cụ thể.
Đối với số dư trên tài khoản tạm
gửi thuộc các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đã có quyết
định thi hành án, thì Toà án và cơ quan thi hành án phối hợp làm thủ tục chuyển
giao sang tài khoản của cơ quan thi hành án để theo dõi và xử lý.
Để thuận tiện cho việc bàn giao,
các Toà án cần rà soát, phân tích, giải khoản các khoản tiền ở quỹ thi hành án
và trên tài sản tạm giữ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
chưa có hiệu lực pháp luật. Đối với số tiền của các vụ án mà bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành án thì toà án cần nhanh
chóng báo gọi cho người được thi hành án đến nhận hoặc chuyển ngay cho họ qua
đường bưu điện ( nếu có địa chỉ rõ ràng)
Sau khi kiểm kê, đối chiếu cụ thể,
kế toán Toà án lập sổ mới và ghi vào sổ tất cả các khoản tiền của các vụ án mà
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật (tiền dự phí, tiền tạm thu...), đồng
thời trích sao các biên lai thu tương ứng (nếu được dùng chung với quyển biên
lai thu tiền của các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật). Còn
quyển biên lai gốc thì chuyển giao cho cơ quan thi hành án để làm căn cứ chi trả
theo nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối với từng tờ biên
lai thu tiền của các vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật,
sau khi đã trích sao xong thì gạch chéo, ghi rõ "đã trích sao sang biên
lai của Toà án" và giữ nguyên trong quyển biên lai gốc để tiện việc kiểm
tra, theo dõi sau này.
Các quyển biên lai đã dùng hết
và đã thể hiện việc chi trả xong, thì không phải bàn giao cho cơ quan thi hành
án (vì trong hồ sơ thi hành án bàn giao cho cơ quan thi hành án đã có lưu đầy đủ
các chứng từ thu - chi cần thi hành cần thiết).
Kể từ ngày1-7-1993, cơ quan thi
hành án phải lập toàn bộ sổ sách mới và sử dụng các quyển biên lai, phiếu chi mới
theo quy định của Bộ Tài chính để quản lý theo dõi việc thu - chi tiền thi hành
án; không đựoc tiếp tục sử dụng các loại sổ sách, các quyển biên lai hoặc phiếu
chi cũ của Toà án để dùng cho hoạt động thi hành án. Đối với các khoản tiền tồn
do Toà án chuyển giao sang, cơ quan thi hành án lập sổ theo dõi riêng và nhanh
chóng có biện pháp giải quyết nhanh gọn, dứt điểm. Cục quản lý thi hành án thuộc
Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các cơ quan thuộc hệ thống thi hành án
trong việc thực hiện công tác tài vụ về thi hành án theo cơ chế mới.
6. Những vấn đề vướng mắc trong
quá trình bàn giao hoặc liên quan đến việc xử lý những tồn tại của việc bàn
giao, thủ trưởng cơ quan thi hành án và Chánh án Toà án nơi bàn giao có trách
nhiệm phối hợp chặt chẽ để có biện pháp giải quyết dứt điểm; nếu không giải quyết
được thì cần báo cáo kịp thời lên cấp trên hoặc Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối
cao để giải quyết.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Uỷ ban nhân dân các cấp có
trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp việc bàn giao, cử một Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân làm Trưởng ban chỉ đạo bàn giao công tác thi hành án, bố trí trụ sở, phương
tiện làm việc, cấp kinh phí bàn giao và các việc cần thiết khác để kịp thời
thành lập các cơ quan thi hành án ở địa phương chậm nhất vào tháng 6-1993.
2. Bộ Tài chính (Cục Kho bạc Nhà
nước), Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo hệ thống Kho bạc nhà nước và Nhân hàng Nhà nước
ở địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án để kịp tiếp nhận
bàn giao các khoản tiền, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ... về thi hành án.
3. Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối
cao có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo việc bàn giao trong toàn quốc được thực
hiện nhanh gọn, đầy đủ, đảm bảo hệ thống cơ quan thi hành án dân sự phải được
thành lập xong trong tháng 6-1993 và đi vào hoạt động bình thường từ 1-7-1993
theo cơ chế thi hành án mới. Các ngành có liên quan trong phạm vi chức năng,
quyền hạn của mình ra các văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện đầy đủ các
điểm quy định trong Thông tư này.
4. Ban chỉ đạo bàn giao các cấp
quy định như sau:
a) Ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành lập Ban chỉ đạo bàn giao gồm có:
- Một Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Trưởng ban;
- Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án
hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh làm Phó trưởng ban;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân, Ban Tổ chức chính quyền, Sở Tài chính -Vật giá, Chi cục Kho Bạc nhà nước,
Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh làm thành viên.
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo bàn
giao là chỉ đạo, giám sát việc bàn giao công tác thi hành án dân sự giữa Toà án
nhân dân cấp tỉnh với cơ quan thi hành án cùng cấp và hướng dẫn, chỉ đạo việc
bàn giao công tác thi hành án dân sự ở cấp huyện.
b) Ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh thành lập Ban chỉ đạo bàn giao gồm có:
- Một Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh làm Trưởng ban;
- Đại diện Sở Tư pháp hoặc Trưỏng
phòng Tư pháp, Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh làm Phó trưởng ban;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân, Phòng Tài chính, Chi nhánh Kho Bạc nhà nước làm thành viên.
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo bàn
giao là chỉ đạo, giám sát việc bàn giao công tác thi hành án giữa Toà án nhân
dân cấp huyện với cơ quan thi hành án cùng cấp.
c) Ban chỉ đạo bàn giao cấp nào
thì do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp đó ra quyết định thành lập.
5. Thời hạn bàn giao quy định
như sau:
- Về tổ chức cán bộ, Toà án cấp
tỉnh, cấp huyện lập danh sách và hồ sơ những người trong diện bàn giao gửi cho
Sở Tư pháp chậm nhất là ngày 10-6-1993. Các Sở Tư pháp lập danh sách và hồ sơ gửi
về Cục quản lý thi hành án thuộc Bộ Tư pháp chậm nhất là ngày 20-6-1993.
-Về trụ sở, phương tiện làm việc,
Toà án cấp tỉnh, cấp huyện lập bản kê bàn giao gửi cho Sở Tư pháp chậm nhất là
ngày 10-6-1993. Sở Tư pháp tập hợp danh sách (kể cả số tài sản, phương tiện do
Uỷ ban nhân dân cấp cho cơ quan thi hành án) gửi về Cục quản lý thi hành án chậm
nhất là ngày 20-6-1993.
-Về sổ sách, hồ sơ, tài liệu có
liên quan đến thi hành án, các vật chứng, tài sản tạm giữ kèm theo hồ sơ thi
hành án trong diện bàn giao và số dư tiền ở quỹ thi hành án, ở tài khoản tạm gửi,
thì Toà án bàn giao trực tiếp cho cơ quan thi hành án chậm nhất là ngày
30-6-1993.
6. Từng nội dung bàn giao, bên
giao phải lập biên bản kèm theo danh mục chi tiết tuỳ theo từng loại vụ, viêc,
hoặc khoản, mục cụ thể. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký của bên giao, bên nhận
và chữ ký xác nhận của các thành viên Ban chỉ đạo bàn giao. Biên bản phải lập đủ
để giao cho bên bàn giao, bên nhận bàn giao, Uỷ ban nhân dân, cơ quan thi hành
án dân sự cấp trên, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao.
7. Giám đốc Sở Tư pháp có trách
nhiệm tổng hợp kết quả bàn giao công tác thi hành án đối với cấp huyện để báo
cáo Cục quản lý thi hành án Bộ Tư pháp và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; Cục
trưởng Cục quản lý thi hành án có trách nhiệm tổng hợp kết quả bàn giao công
tác thi hành án dân sự trong toàn quốc để báo cáo Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh
án Toà án nhân dân tối cao.
8. Bộ Trưởng Bộ Tư pháp có trách
nhiệm báo cáo Chính phủ kết quả bàn giao về thi hành án dân sự từ các Toà án
nhân dân địa phương sang các cơ quan thi hành án của Chính phủ chậm nhất là
ngày 31-8-1993.
9. Viện kiểm sát nhân dân các cấp
có trách nhiệm kiểm sát việc bàn giao công tác thi hành án dân sự theo quy
trình của pháp luật.
10. Trong quá trình thực hiện,
có điểm nào vướng mắc các địa phương cần phản ánh về Bộ Tư pháp và các ngành hữu
quan để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ký.
Nguyễn
Đình Lộc
(Đã
ký)
|
Trịnh
Hồng Dương
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Thị Tuyết
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Sinh Hùng
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Ngọc Oánh
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Khắc Thái
(Đã
ký)
|