Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư liên bộ 315-LB năm 1958 về việc cho vay vốn để xây dựng các công trình thủy lợi do Ngân hàng Nhà nước- Bộ Thuỷ lợi ban hành

Số hiệu 315-LB
Ngày ban hành 13/06/1958
Ngày có hiệu lực 28/06/1958
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Thuỷ lợi,Ngân hàng quốc gia
Người ký Tạ Hoàng Cơ,Trần Đăng Khoa
Lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng,Xây dựng - Đô thị

BỘ THUỶ LỢI-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

********

Số: 315-LB

Hà Nội, ngày 13 tháng 06 năm 1958 

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ

VỀ VIỆC CHO VAY VỐN ĐỂ XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH THỦY LỢI

Nước, phân, cần, giống là những điều kiện căn bản không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Nhất là ở nước ta, do thời tiết khí hậu, nước lại là vấn đề quan trọng bậc nhất, giải quyết được nước cho cây trồng là khắc phục được khó khăn lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp. Do đó nhiệm vụ xây dựng lãnh đạo, động viên quần chúng nông dân bỏ công bỏ của ra làm công tác thủy lợi, đồng thời chú ý giúp đỡ thích đáng để nông dân có thể dần dần tự mình làm chủ được nước, bảo đảm sản xuất phát triển không ngừng.

Để giúp nông dân xây dựng các công trình thủy lợi, ngành Thủy lợi có trách nhiệm lãnh đạo về đường lối phương châm, chủ trương công tác và hướng dẫn kỹ thuật, Ngân hàng quốc gia Việt-nam có trách nhiệm cho vay vốn trong trường hợp cần thiết để nông dân có đủ điều kiện xây dựng công trình.

Thực hiện chủ trương khôi phục kinh tế của Đảng và Chính phủ, trong 3 năm qua, Bộ Thủy lợi đã làm và giúp nông dân khôi phục 14 hệ thống nông giang lớn nhỏ tưới cho trên 30 vạn éc-ta (công mẫu). Ngân hàng quốc gia đã cho nông dân vay trên 3.000 triệu đồng để làm 50 công trình trung thủy nông, 276 công trình tiểu thủy nông, đắp 46 đập, xây 720 cống, mua 3.489 guồng và xe đạp nước, mua 11 máy bơm nước tất cả vừa tưới, rút nước và ngăn nước cho trên 20 vạn mẫu ta, biến ruộng 1 mùa thành 2 mùa, biến ruộng bị thiên tai uy hiếp thành ruộng bảo đảm chắc ăn.

Nhưng, trong mấy năm qua, chúng ta đã cho vay trong điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt như đang tiến hành cải cách ruộng đất, quyền sở hữu ruộng đất của nông dân chưa rõ ràng, lại chưa điều tra nghiên cứu đầy đủ, hướng dẫn thiết kế thi công còn thiếu sót, chưa phối hợp kết hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan, nhất là chưa quy định trách nhiệm cụ thể giữa Ngân hàng và Thủy lợi, cho nên một số công trình đang làm phải bỏ dở hoặc làm xong nhưng không có tác dụng hay có tác dụng nhưng bị hư hỏng. Thậm chí có những phương tiện như guồng máy, máy bơm, xe đạp nước, không ai chịu trách nhiệm bảo quản. Những khuyết điểm ấy đã hạn chế một phần tác dụng của việc cho vay thủy lợi còn gây thêm khó khăn cho quần chúng nông dân, khó khăn cho việc thu hồi nợ của Ngân hàng.

Ba năm tới, công tác thủy lợi vẫn là công tác hàng đầu trong nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Trong 3 năm tới, theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phải giải quyết cho 93 vạn éc-ta chiêm và 1 triệu 40 vạn éc-ta mùa có nước, phải căn bản diệt được hạn, thắng được lụt, đẩy lui úng và giải quyết được nạn nước mặn. Cho nên, cần khắc phục những khuyết điểm nói trên để việc cho vay trong những năm tới được đầy đủ và đúng đắn, góp phần vào việc hoàn thành tốt kế hoạch thủy lợi, bảo đảm chắc chắn cho nông nghiệp phát triển.

Vì những lý do trên, Liên Bộ Thủy lợi Ngân hàng quốc gia quy định chủ trương chính sách nguyên tắc và biện pháp cho vay thủy lợi như sau:

1) Chủ trương chính sách cho vay thủy lợi

Bộ Thủy lợi đã nghiên cứu và quy định thế nào là đại thủy nông, trung thủy nông và tiểu thủy nông, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm của mỗi cấp trong việc chủ trương và lãnh đạo thực hiện các công trình ấy. Đại thủy nông do ngân sách Nhà nước đài thọ, trung và tiểu thủy nông do nông dân bỏ công bỏ của ra làm theo sự hướng dẫn của Ty Thủy lợi địa phương. Nhà nước (chủ yếu là ngân sách địa phương) có thể trợ cấp một phần hay tất cả phí tổn để xây dựng những công trình trung thủy nông ở những vùng dân thiếu ăn, thường bị thiên tai, hay những vùng miền núi cần khuyến khích tăng vụ, tăng diện tích, Bộ hay Ủy ban hành chính tỉnh (dưới sự chỉ đạo của Bộ) có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng các công trình đại thủy nông, Ủy ban hành chính tỉnh có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng c1c công trình tiểu thủy nông.

Căn cứ vào sự quy định ấy, và căn cứ vào khó khăn thực tế của nông dân trong việc tự lực làm các công trình trung tiểu thủy nông, Ngân hàng quốc gia sẽ cho nông dân vay thêm vốn để đủ điều kiện làm các công trình trung tiểu thủy nông, gồm cả các phương tiện lấy nước như xe đạp nước, guồng, cọn, máy bơm nước v.v…

2) Điều kiện được vay vốn

Việc cho vay để làm các công trình thủy lợi rất phức tạp nên cần quy định những điều kiện cụ thể đã bảo đảm làm được tốt. Các công trình thủy lợi được vay vốn phải qua điều tra nghiên cứu (lập được danh sách từng nông hộ có ruộng sẽ được hưởng mức) đảm bảo có lợi, phải được thiết kế và hướng dẫn thi công chu đáo giá thành phải chăng, nông dân đồng tình và quyết tâm làm, nhất trí vay và nhất trí trả nợ đúng hạn định. Đối với các phương tiện lấy nước như xe đạp nước, guồng, cọn, máy bơm, phải bảo đảm có người biết sử dụng mới được vay vốn.

3) Đối tượng cho vay

Đường lối cho vay của Ngân hàng quốc gia là phục vụ cho phong trào hợp tác hóa. Nhưng hiện nay Hợp tác xã còn ít, phát triển lại không đều, miền núi chưa có phong trào hợp tác hóa, làm một công trình thủy lợi không có nghĩa là chỉ phục vụ cho ruộng đất của một hợp tác xã, của một tập đoàn mà là phục vụ chung cho cả một cánh đồng, trong đó có cả ruộng của hợp tác xã của tập đoàn, và của nông dân riêng lẻ.

Căn cứ vào tình hình thực tế trên đây, đối tượng cho vay thủy lợi quy định như sau:

- Đối với trung thủy nông ở miền núi cũng như miền xuôi, đối tượng cho vay là nông dân lao động được tổ chức lại và cử ra một Ban quản trị được sự công nhận của Ủy ban hành chính tỉnh, đại diện cho nông dân lao động trong việc trông coi làm các công trình thủy lợi đó và giao dịch với Ngân hàng trong việc vay vốn và trả nợ. Ban quản trị này có trách nhiệm cho đến khi trả xong nợ Ngân hàng. Nếu vì lý do đặc biệt Ban quản trị thiếu người thì phải cử lại và báo cho Ngân hàng biết để tiện việc giao dịch.

- Đối với máy bơm nước nếu ở những nơi đó chưa có hợp tác xã, tập đoàn, thì đối tượng cho vay áp dụng như cho vay trung thủy nông. Nếu ở những nơi đã có hợp tác xã, tập đoàn thì cho vay hợp tác xã và tập đoàn. Nông dân ở đó cần tưới nước thì thuê máy của hợp tác xã, tập đoàn với điều kiện giá cả phải chăng do đôi bên thỏa thuận.

- Đối với tiểu thủ nông gồm cả xe đạp nước, guồng, cọn đối tượng cho vay là các hợp tác xã, các tập đoàn tiến bộ và nếu những nơi chưa có hợp tác xã, tập đoàn mà cần thiết phải vay thì có thể cho vay tổ đổi công thường xuyên hay liên tổ đổi công thường xuyên dưới hình thức tổ chức lại, cử một ban quản trị để giao dịch với Ngân hàng trong việc vay vốn và trả nợ. Riêng về miền núi, ở những nơi mà quần chúng nông dân quá thiếu thốn, thì có thể cho vay theo biện pháp như đối với trung thủy nông.

4) Vay vốn để làm gì?

Nguyên tắc cho vay của Ngân hàng quốc gia là nhằm giúp giải quyết những nhu cầu mấu chốt, nhưng trước hết nông dân phải tự lực là chính, phần còn thiếu thì Ngân hàng mới cho vay. Vì vậy mà Ngân hàng không thể cho vay khi mà nông dân chưa tận dụng khả năng tự lực của mình.

Dựa và nguyên tắc đó, Ngân hàng sẽ cho vay những số vốn cần thiết để làm những việc sau đây:

- Về trung thủy nông: cho vay để mua nguyên vật liệu, dụng cụ, tiền trả công thợ và trong những trường hợp cần thiết có thể cho vay để trả công làm đất.

- Về tiểu thủy nông: cho vay để mua nguyên vật liệu, dụng cụ, trả tiền công thợ, mua xe đạp nước, guồng, đào và xây giếng vĩnh viễn bằng gạch.

- Về máy bơm nước: cho vay để mua máy bơm nước, xăng dầu mỡ chạy máy, bơm nước, công thợ chạy máy, sửa chữa và mua đồ phụ tùng máy.

5) Thời hạn và lợi suất

Trước đây quy định cho thủy lợi vay nói chung là dài hạn và áp dụng một lợi suất. Nay căn cứ vào tình hình thực tế cần quy định lại thời hạn và lợi suất cho thích hợp với từng loại công tác.

Cho vay dài hạn để mua nguyên vật liệu, dụng cụ, tiền trả công thợ và trả công làm đất để làm trung tiểu thủy nông và để mua máy bơm nước, xe đạp nước, guồng nước, đào và xây giếng vĩnh viễn. Thời hạn cho vay là từ trên một năm đến 3 năm. Lợi suất đối với hợp tác xã là 7% một năm, đối với các tập đoàn là 8% một năm, hợp tác xã ở miền núi là 6%, cá thể ở miền núi là 7% một năm.

[...]