Thông tư liên bộ 04-TT-LB năm 1965 thi hành chính sách thuế sát sinh đối với thương nghiệp quốc doanh kinh doanh thịt do Bộ Tài Chính- Bộ Nội Thương ban hành

Số hiệu 04-TT-LB
Ngày ban hành 23/01/1965
Ngày có hiệu lực 01/02/1965
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Nội thương,Bộ Tài chính
Người ký Nguyễn Văn Đào,Trịnh Văn Bính
Lĩnh vực Thương mại,Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ NỘI THƯƠNG-BỘ TÀI CHÍNH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 04-TT-LB

Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 1965 

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ

VỀ VIỆC THI HÀNH CHÍNH SÁCH THUẾ SÁT SINH ĐỐI VỚI THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH KINH DOANH THỊT

Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 37-NQ-TVQH ngày 20-11-1964 sửa đổi chính sách thuế sát sinh và Thủ tướng Chính phủ đã có thông tư số 125-TTg-TN ngày 31-12-1964 thi hành trước Tết âm lịch 1965.

Căn cứ quyết nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội và thông tư của Thủ tướng Chính phủ, Liên bộ Tài chính - Nội thương quy định việc thi hành chính sách thuế sát sinh đối với kinh doanh thịt của thương nghiệp quốc doanh thực phẩm và hợp tác xã mua bán huyện như sau:

I. VỀ CÁCH THU THUẾ SÁT SINH

Theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, trong khi chờ đợi thu quốc doanh vào thương nghiệp kinh doanh thịt, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm và hợp tác xã mua bán huyện mổ thịt vẫn tiếp tục nộp thuế sát sinh theo tỷ lệ 10% tính trên trọng lượng thịt xô và lòng của con vật giết thịt và theo giá chỉ đạo bán lẻ của Mậu dịch thực phẩm.

II. VỀ CÁCH THU NỘP THUẾ SÁT SINH, MIỄN THUẾ SÁT SINH CHO NGƯỜI CHĂN NUÔI VÀ PHÂN PHỐI THUẾ SÁT SINH CHO NGÂN SÁCH CÁC CẤP

Nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi và bán súc vật cho Nhà nước, trong thông tư số 125-TTg-TN Thủ tưởng Chính phủ đã quy định tỷ lệ giảm thuế sát sinh cho người chăn nuôi và tỷ lệ phân phối số thu về thuế sát sinh cho ngân sách xã chăn nuôi, ngân sách tỉnh chăn nuôi và ngân sách thành phố hay tỉnh giết thịt. Để bảo đảm thi hành đầy đủ chính sách của Nhà nước đối với người chăn nuôi, sòng phẳng đối với ngân sách xã và ngân sách của tỉnh chăn nuôi, đồng thời để tránh mọi sơ hở trong công tác thu nộp thuế và đơn giản sổ sách kế toán, Liên bộ Tài chính - Nội thương quy định:

- Khi thu mua súc vật, các Công ty thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện phải ứng tiền trước để trả số tiền miễn thuế sát sinh cho người chăn nuôi và nộp phần thuế dành cho ngân sách xã và ngân sách tỉnh chăn nuôi; còn phần thuế dành cho ngân sách tỉnh hay thành phố giết thịt con vật thì sẽ nộp sau khi giết thịt.

Cơ quan tài chính địa phương phụ trách việc thu các phần thuế sát sinh dành cho các cấp ngân sách Nhà nước và giúp đỡ kiểm tra việc thu nộp phần thuế dành cho ngân sách xã cũng như việc trả số tiền thuế miễn cho người chăn nuôi.

Cách thức tiến hành miễn thuế cho người chăn nuôi và phân phối số thuế cho ngân sách các cấp quy định như sau:

1. Trả tiền miễn thuế cho người chăn nuôi.

a) Mức miễn như sau:

Ở đồng bằng: 2đ70 một con trâu hay bò,

0,90 một con lợn;

0,45 một con dê.

Ở miền núi: 3đ60 một con trâu hay bò;

1,20 một con lợn;

0,60 một con dê.

Khi trả tiền mua súc vật, cơ quan thu mua sẽ trả luôn phần thuế sát sinh miễn cho người chăn nuôi. Khi cấp tem phiếu mua thịt cho người chăn nuôi, cơ quan thu mua sẽ cấp một loại tem phiếu mua thịt theo giá chỉ đạo bán lẻ trong đó có thuế sát sinh (chứ không cấp hai loại tem phiếu: có thuế và không có thuế như hiện nay nữa).

b) Trong việc trả số tiền thuế sát sinh giảm cho người chăn nuôi, cần chú ý mấy điểm sau đây:

- Người được miễn thuế sát sinh phải là người đã thực sự chăn nuôi con vật trên 4 tháng trước khi bán cho Nhà nước. Đối với lợn choai bán cho cơ quan thu mua, nếu người chăn nuôi đã thực sự chăn nuôi trên 4 tháng thì vẫn được miễn thuế sát sinh, đối với lợn đủ tiêu chuẩn giết thịt nhưng người có lợn mới mua về chăn nuôi chưa được 4 tháng đã bán cho Nhà nước thì cũng không được miễn thuế sát sinh. Cán bộ thu mua sẽ dựa vào cấp ủy và chính quyền xã, vào cán bộ thu mua, thu thuế ở xã, Ban quản trị hợp tác xã và các đội, tổ sản xuất để xác nhận thời gian chăn nuôi.

- Đối với súc vật thu mua trước ngày thi hành chính sách thuế sát sinh mới, nhưng còn ký gửi cho người chăn nuôi, thì lúc giao súc vật cho cơ quan thu mua, người chăn nuôi cũng được nhận tiền miễn thuế sát sinh, nếu trước đây chưa được nhận tem phiếu thịt miễn thuế về số súc vật đó.

- Đối với số tem phiếu được phát để mua thịt với giá không có thuế, do mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện đã cấp cho người chăn nuôi trước đây, thì người chăn nuôi vẫn được quyền sử dụng để mua thịt theo giá không có thuế. Mậu dịch quốc doanh thực phẩm sẽ thanh toán thuế với cơ quan tài chính địa phương như trước. Nhưng để việc thanh toán với cơ quan thu mua được thuận lợi, cần vận động người chăn nuôi sử dụng hết loại tem phiếu đó trong tháng 2 năm 1965. Quá hạn đã định, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện sẽ thu hồi số tem phiếu đó và trả lại số tiền giảm thuế cho người chăn nuôi. (Số tiền này tính theo trọng lượng thịt được miễn thuế và theo giá chỉ đạo 2đ20 một cân thịt). Đồng thời cơ quan thu mua sẽ cấp cho người chăn nuôi tem phiếu mua thịt với giá có cả thuế để thay thế số tem phiếu miễn thuế đã thu hồi. Cơ quan tài chính địa phương sẽ căn cứ vào số tem phiếu miễn thuế đã thu hồi để thanh toán với Mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện.

Đối với súc vật của các tổ chức chăn nuôi của Nhà nước (nông trường quốc doanh, trại chăn nuôi trong ngành thương nghiệp quốc doanh v.v…) giao cho Mậu dịch quốc doanh thực phẩm để giết thịt hay giao cho Ngoại thương để xuất khẩu, đơn vị chăn nuôi không được hưởng tiền giảm thuế sát sinh vì đã được hưởng lương của Nhà nước và vốn chăn nuôi do Nhà nước cấp.

2. Nộp phần tiền thuế sát sinh dành cho ngân sách xã.

Khi thu mua súc vật ở xã, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện phải làm giấy xác nhận với Ủy ban hành chính xã số súc vật đã mua trong xã; và tuần kỳ 15 ngày phải thanh toán với Ủy ban hành chính xã bằng chuyển khoản số tiền thuế sát sinh dành cho ngân sách xã theo mức sau đây (ở đồng bằng cũng như ở miền núi):

2đ20 một con trâu hay bò,

[...]