Thông tư liên bộ 04-TT/LB năm 1968 giải thích, hướng dẫn vấn đề tăng cường và sử dụng hợp lý lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước do Bộ Lao động - Bộ Nội vụ - Ủy ban kế hoạch Nhà nước ban hành

Số hiệu 04-TT/LB
Ngày ban hành 01/05/1968
Ngày có hiệu lực 16/05/1968
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Lao động,Bộ Nội vụ,Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
Người ký Đặng Thí,Lê Chân Phương,Tô Quang Đẩu
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG - BỘ NỘI VỤ - ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
*******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Số : 04-TT/LB

Hà Nội, ngày 01 tháng 5 năm 1968

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ 

GIẢI THÍCH, HƯỚNG DẪN VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG PHỤ NỮ TRONG CÁC CƠ QUAN, XÍ NGHIỆP NHÀ NƯỚC 

Tiếp theo các Nghị quyết số 152 và 153 của Trung ương Đảng, ngày 08-3-1967 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 31-CP về việc tăng cường lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước. Đó là một chính sách lớn của Nhà nước quy định những nguyên tắc, chế độ đối với lao động phụ nữ, bảo đảm thực hiện đường lối triệt để giải phóng phụ nữ, quyền nam nữ bình đẳng và đường lối phân bổ, sử dụng, bồi dưỡng sức lao động xã hội đề ra trong các Nghị quyết số 161-TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và số 103-CP của Hội đồng Chính phủ.

Nghị quyết số 31-CP của Hội đồng Chính phủ có một ý nghĩa và nội dung rất lớn về chính trị, kinh tế, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào “ba đảm đang” đồng thời phân bổ sử dụng hợp lý sức lao động của phụ nữ, thực hiện sự phân công lao động mới đối với toàn bộ lực lượng lao động xã hội nhằm phát huy hơn nữa năng lực dồi dào của phụ nữ để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước hiện nay và yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa lâu dài của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiến thêm một bước mới trong việc thực hiện giải phóng phụ nữ và quyền nam nữ bình đẳng tạo điều kiện cải thiện đời sống phụ nữ, bảo vệ bà mẹ trẻ em và giúp cho việc nuôi dạy con cái của chúng ta được tốt hơn.

Nghị quyết số 31-CP đã đề ra phương hướng và chính sách đối với lao động nữ trong khu vực Nhà nước, trong đó có nhiều vấn đề mới và phức tạp phải qua nghiên cứu, khảo sát thực tế kỹ lưỡng. Vì vậy, qua một thời gian chỉ đạo thí điểm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Liên bộ Lao động - Nội vụ - Ủy ban Kế hoạch Nhà nước ra thông tư giải thích, hướng dẫn một số vấn đề trong nghị quyết của Chính phủ như sau:

Để thực hiện việc tăng cường và sử dụng hợp lý lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ đã đề ra ba nguyên tắc:

1. Những công việc thích hợp với cơ thể và khả năng của phụ nữ nhất thiết phải sử dụng phụ nữ, những công việc quá nặng nhọc, độc hại, không phù hợp với điều kiện sinh lý của phụ nữ, không được sử dụng phụ nữ.

Nguyên tắc này là sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong lao động, thể hiện quan điểm cách mạng và căn cứ khoa học của đường lối, chủ trương, chính sách phân bổ và sử dụng hợp lý lực lượng lao động nữ của Đảng và Nhà nước, nhằm động viên khả năng to lớn của phụ nữ.

Các ngành và các cấp phải phát triển tinh thần cơ bản của nguyên tắc đó để vừa đảm bảo tăng nữ công nhân, viên chức về mặt số lượng, vừa đảm bảo sử dụng hợp lý lực lượng lao động phụ nữ theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong việc đánh giá khả năng của phụ nữ phải có quan điểm cách mạng và toàn diện. Khả năng của phụ nữ không chỉ là sự giác ngộ cách mạng sâu sắc, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, v.v… mà còn là năng khiếu, sở trường của giới tính… đồng thời không những chỉ nhìn khả năng hiện tại, mà còn phải thấy khả năng tiềm tàng để có kế hoạch bố trí sử dụng thích hợp nhằm không ngừng phát huy tài năng của chị em, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Những công việc quá nặng nhọc, độc hại là những công việc không phù hợp với cơ thể, điều kiện sinh lý và chức năng sinh đẻ, nuôi con của phụ nữ, nhất thiết không sử dụng phụ nữ (Liên bộ Y tế - Lao động sẽ có quy định cụ thể), các ngành, các cấp cần quán triệt để vận dụng thi hành. Trong điều kiện kinh tế, trang bị kỹ thuật và hoàn cảnh vừa chiến đấu vừa sản xuất hiện nay, các ngành và các cấp phải căn cứ vào thực tế mà có những biện pháp tích cực cải thiện điều kiện làm việc, cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, bảo hộ lao động… để giảm bớt nặng nhọc, độc hại trong công việc, giúp cho lao động phụ nữ làm việc vừa có năng suất cao, vừa bảo vệ được sức khỏe lâu dài.

2. Tăng cường lực lượng lao động phụ nữ phải đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ và năng lực quản lý giúp chị em phát triển được tài năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất và công tác.

Nguyên tắc này thể hiện một yêu cầu rất cơ bản của việc tái sản xuất sức lao động và là một nội dung chủ yếu để thực hiện triệt để giải phóng phụ nữ trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện phương hướng mà Chính phủ đã nêu trong nghị quyết: “tiến tới xây dựng một đội ngũ đông đảo nữ cán bộ, công nhân trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, vừa có trình độ giác ngộ và tinh thần làm chủ cao, vừa có trình độ nghiệp vụ giỏi”.

Cho nên, trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết, các ngành và các cấp phải coi việc đào tạo và bồi dưỡng về mọi mặt cho phụ nữ nói chung là một vấn đề có tính chất then chốt và thường xuyên, có như vậy mới có điều kiện tăng cường nữ công nhân, viên chức và đảm bảo phát huy tài năng của chị em, thực hiện tiết kiệm lao động và tăng năng suất lao động.

Trong việc đào tạo và bồi dưỡng về mọi mặt cho phụ nữ, các ngành và các cấp cần coi trọng việc bồi dưỡng về văn hóa là một vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay để tạo điều kiện thuận lợi cho chị em tiếp thu khoa học và kỹ thuật.

Thực hiện nguyên tắc này, một mặt các ngành, các cấp nhất là cán bộ phụ trách cơ quan, xí nghiệp phải có biện pháp tích cực và thiết thực, mặt khác phải giáo dục cho nữ công nhân, viên chức có sự nỗ lực vươn lên, khắc phục khó khăn để không ngừng nâng cao trình độ của mình.

3. Sử dụng lao động phụ nữ phải đi đôi với việc bồi dưỡng và bảo vệ tốt sức khỏe giải quyết tốt sự nghiệp phúc lợi xã hội, tăng cường trang bị kỹ thuật, cải tiến công cụ và điều kiện làm việc, thuận lợi cho nữ công nhân, viên chức làm việc với hiệu suất cao, có điều kiện tiến bộ và có đủ sức khỏe lâu dài.

Nguyên tắc ngày thể hiện quan điểm sử dụng lao động đi đôi với bồi dưỡng bảo vệ sức khỏe và chủ trương bảo vệ bà mẹ và trẻ em của Đảng và Nhà nước nhằm sử dụng lao động nữ một cách hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao, đồng thời đảm bảo yêu cầu của việc tái sản xuất sức lao động. Nó không những có ý nghĩa quan trọng bảo vệ sức lao động lâu dài mà còn có quan hệ rất sâu sắc đến thế hệ mai sau. Do đó, cán bộ phụ trách các cơ quan, xí nghiệp phải có quan điểm toàn diện đi sâu vào thực tế sản xuất và đời sống để có biện pháp thiết thực trong việc tổ chức sự nghiệp phúc lợi xã hội, không ngừng cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật và cải thiện điều kiện làm việc phù hợp với đặc điểm sản xuất, công tác và hoàn cảnh thời chiến để bồi dưỡng và bảo vệ tốt sức khỏe của nữ công nhân, viên chức tạo điều kiện thuận lợi cho chị em vừa sản xuất, công tác tốt, vừa nuôi dạy con cái tốt.

 Ba nguyên tắc trên thể hiện một cách sâu sắc, toàn diện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lao động phụ nữ. Đồng thời, nó có quan hệ mật thiết với nhau và là cơ sở của các quy định cụ thể trong nghị quyết. Vì vậy, các ngành và các cấp phải quán triệt đầy đủ nội dung và ý nghĩa của các nguyên tắc đó để vận dụng đúng đắn vào tình hình thực tế.

1. Tăng cường sử dụng, nâng cao tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước đảm bảo sử dụng hợp lý lao động phụ nữ trong những ngành, nghề và công việc thích hợp.

Việc tăng cường lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước là một trong những mục tiêu quan trọng trong Nghị quyết số 31-CP của Chính phủ. Vì vậy nghị quyết đã đề ra tỷ lệ phấn đấu cụ thể: “trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa lực lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước. Trước mắt từ nay đến cuối năm 1968 phải nâng tỷ lệ bình quân nữ công nhân, viên chức lên khoảng 35% trở lên so với tổng số công nhân, viên chức Nhà nước…”. Trên cơ sở quán triệt đường lối phân bổ, sử dụng hợp lý lao động xã hội đề ra trong các Nghị quyết số 161-TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và số 103-CP của Hội đồng Chính phủ, các ngành, các cấp cần quán triệt đầy đủ các nguyên tắc đã nêu trong Nghị quyết số 31-CP đảm bảo vừa tăng số lượng vừa sử dụng hợp lý không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác của chị em.

Nghị quyết số 31-CP của Hội đồng Chính phủ đã ghi rõ: “các ngành như giáo dục, y tế, công nghiệp nhẹ, thương nghiệp… phải tích cực chủ động đưa tỷ lệ nữ công nhân, viên chức lên từ 50 đến 70% hoặc cao hơn. Những công việc như văn thư, đánh máy, điện thoại, kế toán, thống kê, nhân viên phục vụ… phải kiên quyết bố trí phụ nữ đảm nhiệm”.

Để tăng tỷ lệ nữ công nhân, viên chức, trước hết phải lập kế hoạch tăng nữ và đưa kế hoạch đó thành chỉ tiêu lao động chung hàng năm và dài hạn của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, và phải có biện pháp thiết thực, nghiêm chỉnh chấp hành, đảm bảo đúng chỉ tiêu và thời gian đã đề ra.

Do đó khi lập kế hoạch lao động và xác định chỉ tiêu tăng nữ, các ngành, các cấp và các đơn vị cơ sở phải căn cứ vào phương hướng đã nêu trong Nghị quyết số 31-CP kết hợp với tính chất, đặc điểm sản xuất, công tác, tình hình trang bị kỹ thuật, cải tiến công cụ, cải thiện điều kiện làm việc, bảo hộ lao động và kết cấu tổ chức đội ngũ lao động để xác định số lượng và tỷ lệ tăng nữ công nhân, viên chức trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn của ngành, cấp và đơn vị mình.

Biện pháp để tăng tỷ lệ nữ công nhân, viên chức được tiến hành bằng cách tuyển bổ sung nhân viên công tác hàng năm, tuyển bù thay thế nam đi công tác khác, thay người về hưu, mất sức lao động, đi học, đi nghĩa vụ quân sự, tuyển sinh vào các trường sơ cấp, trung cấp và đại học đồng thời điều chỉnh sử dụng hợp lý lao động nam và nữ trong các ngành nghề, trong đó việc sắp xếp, điều chỉnh sử dụng hợp lý lực lượng lao động nữ thay nam và việc tuyển nữ để đào tạo là biện pháp quan trọng nhất trong việc tăng tỷ lệ nữ công nhân, viên chức.

Cơ sở để xác định chỉ tiêu tăng nữ là bảng danh mục các ngành nghề và công việc thích hợp với lao động nữ. Công việc này khá phức tạp đòi hỏi thời gian nghiên cứu, khảo sát và phải tiến hành từ cơ sở lên, có tổng hợp phân tích… Bộ Lao động sẽ cùng với các Bộ có liên quan nghiên cứu hướng dẫn sau. Trong khi chờ đợi các ngành, các cấp căn cứ vào phương hướng của Nghị quyết số 31-CP và vào tình hình thực tế của mình lập bảng danh mục ngành nghề thích hợp với nữ trong ngành, đơn vị mình để kịp thời thực hiện tỷ lệ tăng nữ.

Trong việc nghiên cứu xác định danh mục ngành nghề và công việc thích hợp với lao động nữ phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận tổ chức cán bộ, kế hoạch, lao động tiền lương, kỹ thuật, y tế, định mức… và cần có sự tham gia của công đoàn, đoàn thanh niên, đồng thời coi trọng việc lấy ý kiến xây dựng của quần chúng công nhân, viên chức, nhất là nữ công nhân, viên chức. Cán bộ, ngành chủ quản và Ủy ban hành chính địa phương căn cứ vào báo cáo và đề nghị của cơ sở mà tổng hợp, phân tích, xác định danh mục ngành nghề và công việc sử dụng lao động nữ của ngành và địa phương mình rồi trao đổi thống nhất với Bộ Lao động (nếu thuộc khu vực sản xuất), với Bộ Nội vụ (nếu thuộc khu vực hành chính sự nghiệp) trước khi quyết định cho các cơ sở thực hiện. Trong quá trình thực hiện cần đề phòng và ngăn ngừa những khuynh hướng lệch lạc như ngại sử dụng phụ nữ, ngại khó và sợ phiền phức cho việc quản lý, không tích cực tuyển hoặc điều chỉnh nữ vào những công việc thích hợp, tuyển phụ nữ nhưng thiếu chuẩn bị những điều kiện để tiếp nhận, chỉ tuyển phụ nữ son trẻ, sử dụng một cách tạm bợ, bình quân, không quan tâm bồi dưỡng và giải quyết tốt vấn đề phúc lợi xã hội, đến khi chị em có con mọn, sức yếu thì tìm cách chuyển đi nơi khác hoặc cho thôi việc cách tùy tiện, v.v…

2. Điều chỉnh sử dụng hợp lý lao động nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước.

[...]