Thông tư 79-VKSND/TT-1989 hướng dẫn Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự trong ngành Kiểm sát do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 79-VKSND/TT
Ngày ban hành 15/09/1989
Ngày có hiệu lực 30/09/1989
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký ***
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 79-VKSND/TT

Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 1989 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN PHÁP LỆNH TỔ CHỨC ĐIỀU TRA HÌNH SỰ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT

Ngày 4-4-1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh “Tổ chức điều tra hình sự” quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra… trong đó có cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự. Quy định đó là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Kiểm sát thực hiện chức năng của mình một cách có hiệu quả, chủ động trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Thực hiện điều 32 của Pháp lệnh, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều tra trong ngành Kiểm sát thống nhất như sau:

I- NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN

Điều 18 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự - quy định: “thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.

1- Cục điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phòng điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh điều tra trong những trường hợp sau đây khi Viện trưởng xét thấy cần thiết:

a) Khi phát hiện trong hoạt động điều tra có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

b) Khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật phát hiện những vụ phạm tội rõ ràng, mà xét thấy không cần thiết phải chuyển cho cơ quan điều tra khác.

c) Khi phát hiện tội phạm trong hoạt động tư pháp.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát điều tra trong những trường hợp khác.

2- Phòng điều tra của Viện kiểm sát quân sự trung ương, Ban điều tra của Viện kiểm sát quân sự ở Tổng cục, quân khu, quân chủng và cấp tương đương điều tra những trường hợp tại khoản 1 điều này, nếu vụ án đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự”.

Cần nắm vững tinh thần của Pháp lệnh là cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội có trách nhiệm thụ lý điều tra tất cả các vụ án trong phạm vi thẩm quyền mà Pháp lệnh đã phân định. Cơ quan điều tra cấp dưới có vướng mắc, không làm được thì cơ quan điều tra cấp trên phải điều tra.

Tinh thần của điều luật trên là dành quyền chủ động cho VKS trong hoạt động điều tra bằng việc quy định cho Viện trưởng quyền quyết định việc thụ lý điều tra, nghĩa là thấy cần thiết thì điều tra, không cần thiết thì không điều tra.

Sự cần thiết là do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của vụ án cần phát huy hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm và vi phạm của ngành Kiểm sát, đồng thời phải căn cứ vào khả năng tổ chức lực lượng điều tra của mình để quyết định có giao cho cơ quan điều tra của mình điều tra hay không. Tránh làm một cách tràn lan dẫn đến hoạt động điều tra của VKS chẳng những không tăng cường hiệu lực, uy tín cho công tác kiểm sát mà còn phản tác dụng.

Trong điều kiện hiện nay Viện trưởng VKS chỉ quyết định giao hoặc rút vụ án về cho cơ quan điều tra của VKS điều tra khi có yêu cầu chính trị cấp thiết hoặc nếu có căn cứ cho thấy không giao cho cơ quan điều tra của VKS điều tra thì không đảm bảo tính khách quan, triệt để trong các trường hợp sau:

a) Những vụ án cơ quan điều tra khác đang tiến hành điều tra, hoặc đã kết thúc điều tra, nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, dẫn đến làm oan người vô tội, bỏ lọt kẻ phạm tội mà nếu có giao lại cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra lại cũng không thể làm được thì rút vụ án về tiếp tục điều tra, kết thúc vụ án.

Nếu hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ điều tra đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì khởi tố điều tra.

b) Qua công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các đơn vị thuộc VKS, phát hiện thấy tội phạm mà tài liệu chứng cứ thu thập được đã rõ ràng về hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội đó và thiệt hại gây ra.

c) Khi phát hiện tội phạm trong hoạt động tư pháp mà hành vi phạm tội nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận xã hội, làm giảm lòng tin của quần chúng với cơ quan tiến hành tố tụng, giam giữ cải tạo.

d) Điều tra những vụ án khác - là những vụ án nghiêm trọng xét thấy ngành Kiểm sát cần trực tiếp điều tra (ngoài các trường hợp a, b, c, nêu trên) - do Viện trưởng VKSNDTC quyết định.

Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phát hiện hành vi phạm tội ngoài ba trường hợp nói ở điểm a, b, c trên, thấy cần thiết phải giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát tiến hành điều tra thì cho xác minh, báo cáo rõ sự việc và lý do cần thiết phải giao cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát điều tra, đề nghị lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. Chỉ được khởi tố, tiến hành điều tra khi được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao.

Trong tình hình và yêu cầu đấu tranh chống tội phạm hiện nay, nên vận dụng quy định này để khởi tố điều tra một số hành vi phạm tội nghiêm trọng xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân (quy định tại chương III Bộ luật hình sự); hành vi xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của công dân (quy định tại chương II Bộ luật hình sự) mà chủ thể của những tội phạm này là cán bộ, nhân viên Nhà nước, chính quyền cơ sở; hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tố tụng; những vụ buôn lậu mà chủ thể tội phạm là những tên trùm buôn lậu lớn, thao túng cán bộ cơ quan Nhà nước và những trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.

II- NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ MỐI QUAN HỆ TRONG ĐIỀU TRA

1- Nguyên tắc hoạt động

Căn cứ vào nguyên tắc hoạt động điều tra quy định tại điều 3 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành Kiểm sát, trong hoạt động điều tra cơ quan điều tra của Viện kiểm sát tuân theo những nguyên tắc sau đây:

- Phải tuân theo pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc tố tụng hình sự.

- Chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp quản lý và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

[...]