Thông tư 58-NV năm 1961 hướng dẫn trợ cấp đợt thứ hai cho quân nhân phục viên mất sức lao động do Bộ Nội Vụ ban hành.

Số hiệu 58-NV
Ngày ban hành 01/12/1961
Ngày có hiệu lực 16/12/1961
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Nguyễn Văn Ngọc
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 58-NV

Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 1961 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN VIỆC TRỢ CẤP ĐỢT THỨ HAI CHO QUÂN NHÂN PHỤC VIÊN MẤT SỨC LAO ĐỘNG

Kính gửi: Ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh và khu vực Vĩnh linh.

Việc trợ cấp mất sức lao động cho quân nhân phục viên trong đợt 1 đã có tác dụng tốt, thiết thực giúp cho những quân nhân phục viên bị mất sức lao động duy trì mức sinh hoạt bình thường và gây được ảnh hưởng tốt về chính trị.

Nhưng việc thực hiện thì còn thiếu sót nhiều, mà chủ yếu là diện trợ cấp rộng, vì sự nhận xét, giới thiệu của xã chưa đúng, sự khám nghiệm của Hội đồng giám định y khoa chưa kỹ và sự kiểm tra đôn đốc của Bộ và các tỉnh, huyện chưa được chặt chẽ. Sự hướng dẫn của Bộ đối với một số điểm trong chính sách cũng chưa thật cụ thể.

Dựa vào những kinh nghiệm đã tổng kết trong đợt 1, Bộ ra thông tư này để bổ sung một số điểm cụ thể và hướng dẫn việc trợ cấp mất sức lao động cho quân nhân phục viên đợt thứ hai:

I. GIẢI THÍCH VỀ TIÊU CHUẨN VÀ CÁCH XÉT TRỢ CẤP

1. Điều 1 của Nghị định số 523-TTg ngày 6-12-1958 của Phủ Thủ tướng đã quy định chỉ xét trợ cấp cho “quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày 20-7-1954 đến ngày 11-11-1958 bị bệnh kinh niên tái phát ốm yếu không còn khả năng lao động”. Công văn số 81-NV-DC ngày 13-12-1958 của Bộ đã nói rõ tiêu chuẩn xét trợ cấp là “mất hẳn hoặc mất 1 phần lớn sức khỏe lao động sản xuất”.

Tuy vậy, trong đợt 1, nhiều tỉnh chưa nhận thức đúng tiêu chuẩn trên đây và chưa quan niệm rõ thế nào là mất sức lao động nên vận dụng vào từng trường hợp cụ thể còn sai lệch. Một số tỉnh lại quy định thêm một số tiêu chuẩn trong khi xét trợ cấp như chiếu cố hoàn cảnh túng thiếu, nhiều tuổi quân, nhiều thành tích, bận nhiều công tác xã… Có tỉnh dựa chủ yếu vào bệnh án cũ, khi khám nghiệm thấy còn bệnh là trợ cấp. Vì vậy diện trợ cấp trong đợt 1 có rộng. Ngược lại có một vài tỉnh chưa quan tâm đúng mức nên còn để sót 1 số anh em chưa trợ cấp.

Để nắm vững tiêu chuẩn xét trợ cấp cho quân nhân phục viên trong đợt hai, các địa phương cần thống nhất quan niệm về vấn đề trợ cấp cho quân nhân phục viên như sau: khoản trợ cấp cho quân nhân phục viên là trợ cấp mất sức lao động, chứ không phải trợ cấp bệnh tật hay trợ cấp cho quân nhân phục viên gặp khó khăn trong đời sống. Quân nhân phục viên tuy có bệnh cũ tái phát nhưng chưa đến mức độ mất sức lao động thực sự thì không trợ cấp mất sức lao động (chủ yếu là giải quyết cho đi chữa bệnh).

Mất sức lao động thực sự là mất một phần lớn hay mất hoàn toàn sức lao động hay nói cách khác mất từ 60% đến 100% sức lao động sản xuất đối với nghề nghiệp của quân nhân phục viên hiện nay (như làm ruộng, làm thợ mộc, thợ nề…) Một quân nhân phục viên đang được hưởng trợ cấp mất sức lao động, nhưng nay chuyển sang làm một nghề khác thích hợp với sức khỏe và làm việc được gần như người bình thường thì không coi quân nhân phục viên đó là người bị mất sức lao động nữa (thôi hưởng trợ cấp).

Thí dụ: đang làm ruộng nay chuyển sang làm nghề dệt, nghề may, nghề cắt tóc… hoặc đi công tác. Sự sắp xế cho các xã viên yếu sức làm các công việc thích hợp hoặc làm thêm các nghề phụ thì không coi là chuyển sang làm một nghề mới.

2. Muốn xác định một quân nhân phục viên có mất sức lao động thực sự hay không, phải nhận xét qua sinh hoạt và lao động nghề nghiệp của quân nhân phục viên đó trong một thời gian dài (ít nhất từ 3 tháng trở lên). Việc này tập thể cán bộ xã và nhân dân, nơi quân nhân phục viên ở, có đủ khả năng nhận xét một cách tương đối chính xác, nếu cán bộ, nhân dân và quân nhân phục viên đã thông suốt chính sách, tiêu chuẩn và nhận rõ trách nhiệm của mình. Khi xã hay khu phố đã nhận xét kỹ và đúng thì Hội đồng giám định y khoa mới có chỗ dựa tốt để xác minh lại một lần nữa về mức độ mất sức lao động và xét xem tình trạng mất sức lao động có phải do bệnh cũ tái phát không.

Trong công văn số 3346-BYT-CB ngày 30-5-1959 của Bộ Y tế đã nêu “một số tiêu chuẩn bệnh tật để làm cơ sở cho các Hội đồng giám định y khoa xét”. “Những tiêu chuẩn bệnh tật kể trên chỉ có tính chất hướng dẫn…”. Như vậy việc quy định bằng tiêu chuẩn bệnh tật là nhằm giúp cho Hội đồng giám định y khoa xác định dễ dàng hơn chứ không phải hễ ai có bệnh ghi trong bảng không kể mức độ bệnh thế nào, là được trợ cấp. Ngược lại, có đồng chí mắc một bệnh (bệnh kinh niên cũ) không ghi trong bảng tiêu chuẩn nhưng thực sự mất sức lao động thì vẫn được trợ cấp.

II. NGUYÊN TẮC TRỢ CẤP

1. Chỉ trợ cấp mất sức lao động cho những quân nhân phục viên mất sức lao động thực sự, làm được ít nên bản thân có thu nhập rất ít hoặc không có thu nhập, nhằm giúp cho các quân nhân phục viên có thêm điều kiện duy trì mức sống bình thường và bồi dưỡng sức lao động.

2. Không trợ cấp mất sức lao động cho những quân nhân phục viên:

- Đã chuyển sang làm một công việc mới thích hợp với sức khỏe như: là công nhật, làm khoán, phụ động, làm theo hợp đồng cho các công, nông, lâm trường, xí nghiệp, cơ quan Nhà nước, sản xuất ở các cơ sở sản xuất tiểu thủ công… mà thu nhập hàng tháng bằng hay cao hơn lương tối thiểu (chỉ ngừng trợ cấp sau 6 tháng kể từ ngày chuyển nghề để anh chị em có thời gian ổn định công việc làm ăn).

- Đã được Chính phủ cho hưởng một khoản trợ cấp khác nhằm duy trì mức sống cho quân nhân phục viên như học bổng, sinh hoạt phí… mà khoản trợ cấp này đã bằng hay cao hơn mức trợ cấp mất sức lao động (trừ trường hợp phụ cấp của các cán bộ xã hiện nay). Nếu những khoản trợ cấp nói trên thấp hơn mức trợ cấp mất sức lao động thì quân nhân phục viên sẽ được hưởng khoản chênh lệch.

- Nếu bị tòa án nhân dân kết án phạt giam (tù ngồi), quân nhân phục viên không được lĩnh trợ cấp mất sức lao động nữa. Khi hết hạn phạt giam, quân nhân phục viên sẽ được xét trợ cấp nếu vẫn mất sức lao động.

3. Việc lĩnh trợ cấp và thu hồi sổ trợ cấp theo thể thức như sau:

- Quân nhân phục viên ở huyện nào phải lĩnh trợ cấp mất sức lao động ở huyện đó. Nếu quân nhân phục viên di chuyển hộ khẩu chính thức đến nơi ở mới thì được tiếp tục lĩnh trợ cấp mất sức lao động ở huyện mới. Các cơ quan, công, nông, lâm trường, xí nghiệp, bệnh viện, trường học… không phụ trách trả tiền trợ cấp mất sức lao động cho quân nhân phục viên.

- Nếu quân nhân phục viên ốm yếu không đi lĩnh trợ cấp được thì có thể ủy quyền cho thân nhân đi lĩnh thay từng quý và phải có giấy chứng nhận của Ủy ban hành chính xã. Nếu quân nhân phục viên đi vắng nhà bất cứ vì lý do gì khác, xã cũng không chứng nhận cho quân nhân phục viên ủy người khác đi lĩnh thay (huyện không phát tiền).

Nếu gặp các trường hợp ghi trong điều 2 trên đây thì Ủy ban hành chính xã cần báo cáo ngay lên huyện xét việc thôi trợ cấp, đồng thời xã cần giải thích cho quân nhân phục viên mang nộp sổ trợ cấp cho huyện.

- Nếu quân nhân phục viên chết, Ủy ban hành chính xã cần báo cáo lên huyện để thu hồi sổ trợ cấp.

Tất cả những sổ trợ cấp mất sức lao động do quân nhân phục viên nộp lại hay thu hồi, Ủy ban hành chính huyện, thị xã phải ghi rõ ở tờ đầu của sổ: “Hết giá trị từ ngày… tháng… năm…” có đóng dấu của huyện, thị xã và phải nộp trả Ủy ban hành chính hành chính tỉnh, thành phố.

III. KẾ HOẠCH XÉT TRỢ CẤP

A. PHỔ BIẾN CHÍNH SÁCH CHO CÁN BỘ VÀ QUÂN NHÂN PHỤC VIÊN:

[...]