BỘ
LAO ĐỘNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
4-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 1 năm 1987
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 4-LĐ/TT NGÀY 12-1-1987 HƯỚNG DẪN VIỆC THỰC
HIỆN QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ CƠ SỞ VỀ TIỀN LƯƠNG, TIỀN THƯỞNG
Thi hành Quyết định
số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng, sau khi trao đổi thống nhất về
những điểm có liên quan với Bộ Tài chính (công văn số 859-TC/CN ngày 2-12-1986)
và Ngân hàng Nhà nước (công văn ngày 28-11-1986). Bộ Lao động hướng dẫn thực hiện
quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị kinh tế cơ sở về tiền lương, tiền thưởng
như sau:
I.
NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Việc tổ chức thực
hiện các chế độ tiền lương, phụ cấp và tiền thưởng ở đơn vị cơ sở phải quán triệt
nguyên tắc phân phối theo lao động; tôn trọng tính thống nhất và tính kỷ luật
trong việc chấp hành chính sách, chế độ tiền lương của Nhà nước; bảo đảm kết hợp
hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, của xí nghiệp và của người lao động.
2. Gắn chặt việc trả lương, trả
thưởng với kết quả lao động, hiệu quả sản xuất. Hướng sự quan tâm vật chất của
tập thể và cá nhân người lao động vào việc tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm, tăng số lượng và chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu, sử dụng tốt công suất thiết bị, máy móc để hoàn thành và
hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất - kinh doanh.
3. Xí nghiệp bảo đảm trả lương,
trả thưởng đủ và đúng kỳ cho người lao động, tạo điều kiện cho công nhân, viên
chức ổn định đời sống để an tâm sản xuất và công tác.
II.
NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
1. Trên cơ sở làm đầy
đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước (giao sản phẩm, nộp ngân sách...) theo các chỉ
tiêu pháp lệnh, giám đốc xí nghiệp có quyền sử dụng các quỹ sau đây để trả
lương và trả thưởng cho công nhân, viên chức:
a) Quỹ tiền lương được xác định
theo quy định tại Thông tư số 3-TT/ LB ngày 27-2-1986 và thông tư số 12-TT/LB
ngày 6-10-1986 của Liên Bộ Lao động- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước.
b) Quỹ khen thưởng bao gồm:
- Tiền thưởng được trích từ các
nguồn lợi nhuận thu được theo quy định tại Quyết định số 76-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng và hướng dẫn tại các Thông tư số 11-TC/CNA ngày 27-7-1986, số 29-TC/GTBĐ
ngày 26-9-1986 và Thông tư số 34-TC/TNVT ngày 25-10-1986 của Bộ Tài chính;
- Tiền thưởng về phần giá trị
làm lợi do xí nghiệp đã sử dụng tiết kiệm so với định mức được duyệt, định mức
của Nhà nước, của ngành về vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, chi phí cố định,
chi phí quản lý, phí lưu thông sau khi đã trả thưởng đúng chế độ cho những cá
nhân và tập thể có công trong việc tiết kiệm;
- Tiền thưởng hoàn thành vượt tiến
độ trong xây dựng cơ bản;
- Tiền thưởng khuyến khích sản
xuất hàng xuất khẩu;
- Tiền thưởng về phần giá trị
làm lợi nhờ sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế sau
khi đã trừ chi phí về nghiên cứu, thí nghiệm, chế thử... và trả thưởng đúng chế
độ cho các tác giả sáng kiến cải tiến;
- Tiền thưởng về phần giá trị
làm lợi do áp dụng tiến bộ kỹ thuật;
- Tiền thưởng sản phẩm được cơ
quan có thẩm quyền cấp dấu chất lượng và tiền thưởng về phần giá trị làm lợi do
tăng khối lượng sản phẩm chất lượng cao so với định mức hoặc kế hoạch được duyệt;
- Tiền thưởng được nhận từ cơ
quan cấp trên;
- Tiền thưởng từ đơn vị bạn do
thực hiện tốt hợp đồng kinh tế.
c) Quỹ tiền lương và quỹ khen
thưởng còn lại của thời kỳ trước.
2. Giám đốc xí nghiệp được quyền
lựa chọn các hình thức trả lương (lương thời gian, lương sản phẩm) và các chế độ
trả lương hiện hành thích hợp cho từng tập thể, hoặc cá nhân công nhân, viên chức
trong xí nghiệp. Chú trọng áp dụng đúng đắn chế độ lương khoán (khoán gọn theo
công đoạn, theo công trình hoặc hạng mục công trình, khoán đến nhóm và người
lao động) , lương sản phẩm tập thể theo kết quả sản xuất cuối cùng, kết hợp
khoán lương với khoán vật tư, chi phí sản xuất nói chung, kết hợp với hạch toán
kinh tế của từng phân xưởng, tổ, đội.
Đối với các phòng, ban của xí
nghiệp, từng bước áp dụng việc giao khoán quỹ lương trên cơ sở định biên chặt
chẽ, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, khối lượng và thời gian công việc phải
hoàn thành của từng người, từng phòng, ban.
Giám đốc xí nghiệp có quyền lựa
chọn hoặc phân cấp cho các tập thể lao động tổ, đội, phòng, ban thảo luận và lựa
chọn phương pháp chia lương thích hợp cho các thành viên căn cứ vào mức độ đóng
góp của từng người đối với việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch được giao. Kết quả
chia lương phải được công bố cho các tập thể lao động, tổ, đội, phòng, ban biết.
3. Với tổng số quỹ tiền thưởng
thu được từ các nguồn nói ở điểm 1b, mục II trên đây, giám đốc xí nghiệp có quyền
lựa chọn các hình thức phân phối tiền thưởng và quy định các chỉ tiêu, điều kiện
và mức tiền thưởng phù hợp cho tập thể và cá nhân. Chú trọng khuyến khích công
nhân trực tiếp sản xuất, những bộ phận lao động kỹ thuật phức tạp, nặng nhọc, độc
hại, những thương binh nặng và người sức yếu nhưng có cố gắng vượt bậc, và những
bộ phận sản xuất chủ yếu.
4. Trên cơ sở những quy định hiện
hành của Nhà nước, theo nhu cầu thực tế về cấp bậc công việc trong sản xuất và
công tác và trong phạm vi quỹ lương của đơn vị giám đốc xí nghiệp có quyền:
a) Xếp bậc lương cho công nhân,
viên chức phù hợp với tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, tiêu chuẩn nghiệp vụ.
b) Quyết định nâng bậc lương cho
công nhân, viên chức căn cứ vào kết quả kiểm tra trình độ nghề và đề nghị của Hội
đồng lương của xí nghiệp.
c) Quyết định mức lương cho công
nhân, viên chức được điều động tạm thời sang làm công việc khác hoặc nghề khác.
d) Khi tuyển mới, phải tổ chức
kiểm tra trình độ nghề của công nhân, trình độ nghiệp vụ của viên chức. Căn cứ
vào kết quả kiểm tra và công việc được giao để xếp lương cho người mới tuyển.
5. Các chế độ phụ cấp lương đã
có quy định của Nhà nước, thì giám đốc trả trực tiếp cho công nhân, viên chức
theo đúng đối tượng và mức được hưởng, không được quyền giữ lại để phân phối
sai nguyên tắc. Riêng tỷ lệ khuyến khích lương sản phẩm cho công nhân và tỷ lệ
tiền thưởng từ quỹ lương cho công nhân, viên chức theo quy định hiện hành của
Nhà nước thì giám đốc xí nghiệp có quyền điều chỉnh hợp lý cho từng phân xưởng
chính, phụ, từng loại sản phẩm quan trọng phức tạp về kỹ thuật khác nhau để
tránh bình quân và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, nhưng phải công bố cho công
nhân viên chức biết.
6. Giám đốc xí nghiệp có quyền
dành một phần từ các quỹ đã quy định tại điểm 1, mục II trong thông tư này để
khuyến khích công nhân, viên chức đảm nhận thêm công việc, làm công việc khó
khăn hơn hoặc có nhiều thành tích cống hiến cho xí nghiệp như:
a) Phụ cấp kiêm nghề, kiêm việc;
b) Trả đơn giá luỹ tiến trong
trường hợp cần áp dụng chế độ trả lương sản phẩm luỹ tiến;
c) Trả đơn giá cao hơn cho những
sản phẩm vượt định mức;
d) Trả lương cao hơn cho những
công nhân viên chức có tài năng đặc biệt của xí nghiệp và những người làm việc ở
đơn vị khác đã ký kết hợp đồng với cho xí nghiệp như chuyên gia tư vấn, cộng
tác viên kiêm nhiệm và làm các công việc khác đã thực sự đóng góp xuất sắc cho
xí nghiệp;
đ) Trả lương những ngày cho nghỉ
thêm ngoài chế độ nghỉ phép hàng năm đối với những lao động xuất sắc, chiến sĩ
thi đua, anh hùng lao động và thương binh nặng;
e) Thưởng thâm niên xí nghiệp...;
g) Thưởng cho những công nhân,
viên chức tìm được nguồn vật tư, nguyên vật liệu mới, nguồn tiêu thụ sản phẩm mới;
h) Thưởng cho các đơn vị bạn thực
hiện tốt hợp đồng kinh tế đối với xí nghiệp;
7. Giám đốc xí nghiệp đảm bảo trả
lương trực tiếp, đầy đủ, đúng kỳ hạn và tại nơi làm việc cho người lao động
theo kết quả lao động của mỗi người. Bất kỳ vì lý do gì cũng không được trả
lương chậm cho công nhân viên chức. Trường hợp trả lương chậm, giám đốc xí nghiệp
phải trả lãi theo lãi xuất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có lãi cho công
nhân, viên chức.
8. Trong thời gian trước mắt,
Nhà nước còn phải bảo đảm bán đủ 6 mặt hàng thiết yếu cho công nhân viên chức,
giám đốc xí nghiệp bàn nhất trí với hội đồng xí nghiệp và ban chấp hành công
đoàn, có quyền quản lý các tiêu chuẩn định lượng các mặt hàng đó hoặc quy ra
giá trị theo giá kinh doanh thương nghiệp ở địa phương để gắn với ngày công thực
tế hoặc nhiệm vụ kế hoạch hàng tháng đã quy định cho từng người.
Với cách phân phối như trên,
công nhân viên chức không phải nộp lại tiêu chuẩn bằng hiện vật. Tiền thu lại của
những người này và việc sử dụng số tiền đó phải được công bố rành mạch, công
khai.
9. Giám đốc xí nghiệp có trách
nhiệm xây dựng quy chế cụ thể về trả lương, trả thưởng của xí nghiệp phù hợp với
các điều kiện cụ thể và đặc điểm sản xuất của xí nghiệp. Nội quy này phải được
đại hội công nhân viên chức (hoặc hội nghị đại biểu) xí nghiệp thông qua và kết
quả thực hiện phải được công bố công khai đến từng người lao động trong xí nghiệp.
10. Tập thể công nhân viên chức
có quyền và có trách nhiệm tham gia (thông qua ban chấp hành công đoàn và các tổ
chức tập thể của người lao động), cùng với giám đốc xí nghiệp quyết định quy chế
trả lương, trả thưởng, bảo đảm việc thực hiện đầy đủ quy chế đó và kiểm tra việc
chấp hành các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người lao động.
III.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Giám đốc xí nghiệp
có trách nhiệm hạch toán rành mạch và chính xác các nguồn tài chính phát sinh
nói ở điểm 1 mục II của thông tư này, đăng ký kế hoạch quỹ tiền lương với Ngân
hàng cơ sở phục vụ xí nghiệp để tạm ứng kịp thời hàng tháng, hàng quý với công
nhân viên chức khi quyết toán cuối năm.
2. Đề nghị các ngành hướng dẫn
các đơn vị thuộc quyền thực hiện tốt thông tư này; nếu có quy định thêm cho
thích hợp với đặc điểm sản xuất kỹ thuật và lao động của mình thì trao đổi với
Bộ Lao động.
3. Các sở lao động có trách nhiệm
giúp Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương đôn đốc,
kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện ở các ngành, các cơ sở trong phạm vi
lãnh thổ (kể cả xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp địa phương). Các Vụ Lao động,
các Sở Lao động định kỳ báo cáo tình hình thực hiện Thông tư này về Bộ Lao động
để tổng hợp và báo cáo lên Hội đồng Bộ trưởng.
4. Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1986. Những quy định trong các văn bản ban hành trước
đây trái với thông tư này đều bãi bỏ.