Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư 34-TTg năm 1963 quy định chế độ quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực sản xuất do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 34-TTg
Ngày ban hành 26/04/1963
Ngày có hiệu lực 11/05/1963
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 34-TTg

Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 1963 

 

THÔNG TƯ 

QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI TIÊU QUỸ TIỀN LƯƠNG THUỘC KHU VỰC SẢN XUẤT

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ  

Để tăng cường công tác quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực sản xuất, tiếp theo quyết định số 148-TTg, ngày 19 tháng 03 năm 1958 và thông tư số 049-TTg, ngày 14 tháng 02 năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ, thông tư này quy định chế độ quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực sản xuất cụ thể như sau:

1. Quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực sản xuất, nhằm mục đích:

- Thúc đẩy các xí nghiệp và tổ chức kinh tế sử dụng hợp lý và tiết kiệm quỹ tiền lương, chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch lao động, kế hoạch tiền lương bình quân phát hiện những mặt mất cân đối giữa các chỉ tiêu sản lượng, lao động và tiền lương để có biện pháp khắc phục kịp thời;

- Góp phần thực hiện đúng đắn chính sách phân phối theo lao động, khuyến khích tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và phí lưu thông, củng cố chế độ hạch toán kinh tế;

- Góp phần giữ vững cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cơ sở cho việc quản lý tiền tệ, củng cố và nâng cao sức mua của đồng tiền.

2. Việc quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương quy định trong thông tư này được áp dụng đối với các xí nghiệp công nghiệp, giao thông bưu điện, nông nghiệp, lâm nghiệp và thương nghiệp quốc doanh trung ương (trừ đơn vị kiến thiết cơ bản), và do Ngân hàng Nhà nước phụ trách.

3. Tùy theo tính chất của từng ngành, việc quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương sẽ dựa trên kế hoạch sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp, như giá trị sản lượng, khối lượng công tác v.v… dưới đây gọi chung là kế hoạch sản xuất.

4. Việc trả lương trong khu vực sản xuất phải phù hợp với mức độ thực hiện kế hoạch sản xuất:

a) Nếu kế hoạch sản xuất hoàn thành 100% thì được chi 100% quỹ tiền lương kế hoạch.

b) Nếu hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, kế hoạch năng suất lao động, thì được chi tiền lương vượt mức so với quỹ tiền lương đã duyệt theo hệ số được tăng về quỹ tiền lương đối với từng loại xí nghiệp. Hệ số này do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ,Tổng cục chủ quản và Ngân hàng Nhà nước quy định.

c) Trong điều kiện sản xuất bình thường, nếu không hoàn thành kế hoạch sản xuất, thì số tiền lương được chi cũng giảm theo tỷ lệ thích ứng.

5. Nếu xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch sản xuất, thiếu tiền lương để trả cho công nhân, Ngân hàng Nhà nước có thể tạm ứng cho xí nghiệp một phần tiền lương trong phạm vi kế hoạch quỹ tiền lương được duyệt. Cách giải quyết cụ thể ấn định như sau:

a) Trường hợp xí nghiệp chỉ vượt mức tiền lương so với mức thực hiện kế hoạch sản xuất trong phạm vi tỷ lệ do các Bộ, Tổng cục chủ quản cùng Ngân hàng Nhà nước quy định, nhưng chưa vượt quá quỹ tiền lương kế hoạch, thì xí nghiệp phải có bản thuyết minh về kế hoạch bồi hoàn số tiền lương vượt mức đó trong một thời hạn nhất định, Ngân hàng Nhà nước có thể ứng tiền lương để trả.

b) Trường hợp chi vượt mức tiền lương so với mức thực hiện kế hoạch sản xuất quá tỷ lệ đã quy định, hoặc chi vượt mức tiền lương liên tiếp và xét thấy xí nghiệp thiếu khả năng bồi hoàn, hoặc chỉ vượt mức quỹ tiền lương kế hoạch trong khi không hoàn thành kế hoạch sản xuất, thì Ngân hàng Nhà nước không được phát phần chi vượt mức đó, và thông báo ngay cho Bộ, Tổng cục chủ quản của xí nghiệp biết.

Bộ, Tổng cục chủ quản có thể yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phát tiền lương vượt mức cho xí nghiệp đồng thời để biện pháp cụ thể cho xí nghiệp khắc phục khuyết điểm, đẩy mạnh sản xuất, sử dụng hợp lý và tiết kiệm quỹ tiền lương để có thể bồi hoàn phần tiền lương mà xí nghiệp đã chi vượt mức.

c) Thời hạn bồi hoàn số tiền lương chi vượt mức không được quá ba tháng. Nếu đến cuối năm vẫn chưa bồi hoàn đủ số tiền lương đã chi vượt mức trong năm, thì Ngân hàng phải thông báo ngay cho Bộ, Tổng cục chủ quản của xí nghiệp để giải quyết bằng cách điều hòa quỹ tiền lương giữa các xí nghiệp hoặc lấy trong số tiền lương dự trữ của Bộ Tổng cục chủ quản để bù.

Nếu Bộ, Tổng cục chủ quản không còn khả năng điều hòa hoặc đã dùng hết quỹ dự trữ thì phải báo cáo với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đệ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

d) Đối với xí nghiệp đã để xẩy ra chi vượt mức tiền lương liên tục và mặt dầu đã có biện pháp bổ cứu của Bộ, Tổng cục chủ quản mà vẫn chưa có chuyển biến tốt trong việc quản lý sản xuất, thực hiện cân đối các chỉ tiêu kế hoạch, thì Ngân hàng Nhà nước có thể đề nghị Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng kiểm tra tình hình hoạt động kinh tế tài vụ của xí nghiệp.

Hội đồng kiểm tra do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì, có đại diện Bộ Lao động, Tổng cục chủ quản của xí nghiệp, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban thanh tra Chính phủ. Việc trả lương cho xí nghiệp sẽ thi hành theo kết luận của Hội đồng kiểm tra. Nếu các thành viên trong Hội đồng kiểm tra có những quan điểm khác nhau không kết luận được thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

6. Hàng năm và từng quý, các Bộ và Tổng cục chủ quản phải đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước các kế hoạch sản xuất và kế hoạch lao động tiền lương của ngành mình, các xí nghiệp thì đăng ký trực tiếp tại cơ quan Ngân hàng Nhà nước giữ tài khoản của xí nghiệp.

Các tài liệu đăng ký về kế hoạch sản xuất và kế hoạch lao động tiền lương của các Bộ, Tổng cục chủ quản và xí nghiệp khi gửi cho Ngân hàng phải cùng gửi cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Thời hạn, nội dung mẫu biểu đăng ký kế hoạch do Ủy ban kế hoạch Nhà nước quy định.

Ngân hàng phát lương dựa theo đăng ký kế hoạch chính thức. Trường hợp chưa có đăng ký chính thức do kế hoạch chưa được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thì Ngân hàng Nhà nước có thể tạm ứng tiền lương cho xí nghiệp theo yêu cầu chính thức của Bộ, Tổng cục chủ quản của xí nghiệp.

7. Nếu kế hoạch sản xuất quý hay tháng của xí nghiệp có thay đổi, Giám đốc xí nghiệp phải đề nghị với Bộ, Tổng cục chủ quản xét điều chỉnh kế hoạch tiền lương quý hay tháng, nhưng không được vượt quá chỉ tiêu kế hoạch tiền lương cả năm hay cả quý đã được duyệt. Việc điều chỉnh kế hoạch của quý hay tháng phải hoàn thành và gửi tới Ngân hàng trước ngày 10 của tháng cuối quý kế hoạch (đối với kế hoạch quý (và trước ngày 20 của tháng kế hoạch (đối với kế hoạch tháng).

8. Các Bộ, Tổng cục có nhiệm vụ quản lý quỹ tiền lương của ngành mình; có quyền được điều hòa mức tiền lương của xí nghiệp thừa cho xí nghiệp thiếu trong phạm vi kế hoạch được duyệt.

[...]