Thông tư 30-TT/QLTN-1966 hướng dẫn thi hành Thông tư 12-Vg-1966 về việc cải tiến chế độ học bổng đối với sinh viên, học sinh (người miền Bắc) học trong các trường chuyên nghiệp do Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp ban hành

Số hiệu 30-TT/QLTN
Ngày ban hành 11/01/1966
Ngày có hiệu lực 26/01/1966
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp
Người ký Tạ Quang Bửu
Lĩnh vực Giáo dục

BỘ ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 30-TT/QLTN

Hà Nội, ngày 11 tháng 01 năm 1966 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 12-VG NGÀY 03-01-1966 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ HỌC BỔNG ĐỐI VỚI SINH VIÊN, HỌC SINH (NGƯỜI MIỀN BẮC) HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG CHUYÊN NGHIỆP

Căn cứ vào yêu cầu đào tạo cán bộ và tình hình mới, Liên bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp – Tài chính đã báo cáo Chính phủ xét và cho chỉ thị về chế độ học bổng.

Thi hành Nghị quyết của Hội nghị thường vụ Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 12-Vg ngày 03-01-1966 của Thủ tướng Chính phủ về việc cải tiến chế độ học bổng đối với sinh viên, học sinh miền Bắc, sau khi thỏa thuận với Bộ Tài chính, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp giải thích và hướng dẫn như sau:

Tinh thần Nghị quyết của Chính phủ là:

a) Xét cấp học bổng theo chế độ hiện hành với các loại học bổng đặc biệt, toàn phần, ba phần tư (3/4), một nửa (1/2), một phần ba (1/3) và loại tự túc; để chiếu cố đến những gia đình sinh viên, học sinh có khó khăn đặc biệt do tình hình mới gây ra, Chính phủ cho phép tăng thêm tỷ lệ học bổng (quy thành toàn phần) chung cho các trường.

b) Ngoài ra, tất cả sinh viên, học sinh:

- Được mượn giáo trình, tài liệu để học tập,

- Được cấp thuốc men, bồi dưỡng, kể cả tiền nằm bệnh viện khi ốm đau.

Trong tình hình cả nước đang có chiến tranh, mọi ngành, mọi người, đều phải khắc phục khó khăn, nỗ lực sản xuất và chiến đấu, các gia đình có con đi học phải có nghĩa vụ đóng góp với mức tích cực nhất vào việc ăn học của con em mình, để góp phần chống Mỹ cứu nước, việc cải tiến chế độ học bổng năm nay là một sự cố gắng rất lớn của Đảng và Chính phủ đối với sự nghiệp đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật. Đây là một chính sách cụ thể tạo điều kiện cho sinh viên, học sinh phấn khởi an tâm học tập.

VỀ CÁCH VẬN DỤNG VÀ XÉT CẤP

Căn bản vẫn như cũ, nhưng cần chú ý những điểm dưới đây:

1. Theo quy định mới, con cán bộ đi công tác B (kể cả miền Nam) nhà trường không xét và cấp học bổng nữa kể từ 1-1-1966;

- Đối với các em còn có gia đình ở miền Bắc thì Bộ Nội vụ chuyển tất cả tiền trợ cấp cho gia đình. Gia đình có trách nhiệm gửi tiền cho con ăn học;

- Đối với các em không có gia đình ở miền Bắc, Bộ Nội vụ chuyển tiền trợ cấp cho các em qua các Bộ có trường hoặc Ủy ban hành chính địa phương.

2. Tiêu chuẩn kinh tế vẫn như cũ, riêng đối với gia đình học sinh sản xuất nông nghiệp, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp đề nghị Ủy ban hành chính các tỉnh, thành có những chỉ thị cần thiết cho Ủy ban hành chính xã, khu phố quán triệt đầy đủ tinh thần Nghị quyết của Chính phủ về việc cải tiến chế độ học bổng trong thời chiến như trên đã nói, để có sự chứng nhận một cách chính xác, vô tư khả năng kinh tế của gia đình học sinh, góp phần thực hiện đúng chính sách nhằm đảm bảo yêu cầu đào tạo cán bộ. Vì vậy, từ nay các trường chỉ yêu cầu các Ủy ban hành chính xã, khu phố cho biết: mức thu nhập bình quân cho mỗi nhân khẩu của gia đình học sinh là bao nhiêu tiền một tháng (tính cả kinh tế tập thể và kinh tế phụ ngoài hợp tác xã), trung bình mỗi tháng có thể đóng góp vào việc ăn học của con em được bao nhiêu, để các trường tham khảo khi tiến hành xét cấp học bổng.

3. Về loại học bổng đặc biệt (trong có cả tiền ăn, may mặc, giấy bút, tiêu vặt) chỉ dành để xét cấp cho những đối tượng dưới đây, nếu có giấy tờ chứng nhận đầy đủ:

- Con tử sĩ, liệt sĩ, thương binh tàn phế không nơi nương tựa;

- Học sinh dân tộc ít người, ở rẻo cao như Mèo, Lôlô, Giao, Trại…;

- Học sinh các dân tộc Tày; Nùng; Mường, Thái, Hoa, nhưng mồ côi cha mẹ, không người nuôi dưỡng.

4. Đối với các đối tượng sinh viên, học sinh khác, kể cả lưu học sinh về học trong nước năm 1964, yêu cầu các trường dựa vào tiêu chuẩn hướng dẫn đã quy định, căn cứ vào hoàn cảnh sinh hoạt thực tế của sinh viên, học sinh và căn cứ vào tình hình kinh tế ở những vùng khác nhau (miền núi, trung du, đồng bằng; vùng có chiến sự…) mà xét cấp, đảm bảo chính xác và hợp lý, vì các bản kê khai và chứng nhận chưa phản ánh được đúng toàn bộ thu nhập thực tế của gia đình học sinh, nhất là ở nông thôn; khi tiến hành xét cấp, cần chú ý:

a) Đối với các học sinh các dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái, Hoa mà bình quân không quá mức không được cấp học bổng, học sinh mồ côi cha mẹ, học sinh bản thân là cán bộ chủ chốt ở xã, là thương binh hoặc cán bộ Nhà nước được cử đi học nhưng thiếu tiêu chuẩn thâm niên không được sinh hoạt phí, thì xét cấp học bổng toàn phần.

b) Đối với con các gia đình mà việc làm ăn sinh sống gặp nhiều khó khăn do chiến tranh phá hoại của địch gây ra  được chiếu cố xét cấp cao hơn tiêu chuẩn quy định một mức.

c) Đối với những sinh viên, học sinh có thành tích đặc biệt trong học tập và tu dưỡng đạo đức, hoặc là con các gia đình đã có chính sách được chiếu cố, hoặc bản thân đã qua hai năm sản xuất hay chiến đấu; vẫn xét cấp theo quy định chung, nhưng nếu thu nhập bình quân cao hơn mức không được cấp học bổng, nhưng không cao hơn quá 3 đồng, vẫn được xét cấp một phần ba (1/3) học bổng.

d) Đối với những gia đình có nhiều con học đại học và trung học chuyên nghiệp, nếu gia đình thuộc thành phần cơ bản, và bản thân học sinh có thành tích trong tu dưỡng và học tập thì xét cấp học bổng cho tất cả các người con, nhưng phải cộng tiền học bổng của người con thứ nhất vào thu nhập để xét cấp cho người con thứ hai, cộng học bổng của người con thứ nhất, thứ hai  vào thu nhập để xét cấp cho người con thứ ba v.v…

5. Về năm 1965 – 1966, các trường chỉ nghiên cứu cấp học bổng theo quy định này cho sinh viên, học sinh mới vào học; còn đối với sinh  viên, học sinh các năm trước thì chỉ điều chỉnh những trường hợp có khó khăn đột xuất về kinh tế, ảnh hưởng nhiều đến học tập (vì thiên tai, địch họa…) và những trường hợp học sinh có thành tích thật xuất sắc trong học tập cùng các trường hợp man khai giấy tờ đề nghị xét cấp học bổng, hoặc bị kỷ luật nặng không đáng được cấp học bổng như cũ. Việc điều chỉnh lại học bổng phải được cân nhắc thận trong, không được rũ rối;

6. Việc xét cấp học bổng cho từng trường, từng loại trường phải căn cứ vào tỷ lệ chỉ đạo do các Bộ, các Ủy ban hành chính tỉnh, thành sẽ ban hành sau khi có sự thỏa thuận của Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp theo như Thông tư của Thủ tướng Chính phủ đã quy định, cho phù h ợp với khả năng của Nhà nước hiện nay. Đối với các trường lớp có yêu cầu đào tạo riêng biệt, tỷ lệ có thể cao hơn.

7. Danh sách các sinh viên, học sinh được đề nghị cấp học bổng hoặc điều chỉnh học bổng phải được Bộ hoặc cơ quan được Bộ ủy nhiệm, hay Ủy ban hành chính tỉnh, thành duyệt y trước khi công bố.

[...]