Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Thông tư 289-TTg năm 1958 về việc kiện toàn chính quyền địa phương do Thủ tướng Chính Phủ ban hành

Số hiệu 289-TTg
Ngày ban hành 10/06/1958
Ngày có hiệu lực 25/06/1958
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Văn Đồng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 289-TTg

Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 1958 

 

THÔNG TƯ

VỀ KIỆN TOÀN CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

I. - MẤY NÉT CHÍNH VỀ TÌNH HÌNH BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY

Từ ngày hòa bình lập lại, chúng ta đã chú ý tăng cường bộ máy chính quyền địa phương. Trong việc thành lập các khu tự trị, trong công nghiệp sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, các cơ quan chính quyền địa phương đã được kiện toàn thêm một bước, do đó, đã phục vụ có kết quả nhiệm vụ khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hóa. Nhưng trong thời gian qua, chúng ta mới kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương theo yêu cầu từng lúc, từng nơi và trong một chừng mực nhất định, chủ yếu trong công nghiệp sửa sai; chúng ta chưa có một kế hoạch toàn diện, phù hợp với nhiệm vụ của giai đoạn hiện tại.

Hiện nay, bộ máy chính quyền địa phương còn có những nhược điểm và khuyết điểm về mấy mặt như sau:

1) Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra từ 1946, 1952 đến nay chưa được bầu lại (trừ Hội đồng nhân dân khu tự trị, 2 thành phố Hà nội, Hải phòng và một số ít Hội đồng nhân dân châu, xã); nhiều nơi Hội đồng nhân dân đã tan ra trong kháng chiến và cải cách ruộng đất; nơi nào còn, thì số đại biểu còn lại không thể hiện được tính chất Mặt trận rộng rãi trên cơ sở công nông liên minh, không đại biểu được các tầng lớp nhân dân, các ngành hoạt động trong địa phương.

Ủy ban Hành chính trải qua nhiều lần thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến, đến nay vẫn chưa được dân chủ bầu cử và do cấp trên chỉ định (trừ các nơi nói trên đã bầu Hội đồng nhân dân); vai trò của Ủy ban Hành chính bị lưu mờ trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; sau sửa sai, Ủy ban Hành chính các cấp đã được sơ bộ chấn chỉnh và hoạt động có kết quả, nhất là ở cấp tỉnh, nhưng về chất lượng, nói chung, trình độ và khả năng của Ủy ban Hành chính còn yếu, nhất là ở cấp huyện và xã, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác; một số đông Ủy ban Hành chính các cấp còn có những ủy viên thiếu uy tín.

Số lượng ủy viên trong Ủy ban Hành chính các cấp quy định từ 5 đến 9, phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến, hiện nay đã tỏ ra quá ít so với nhiệm vụ trước mắt. Trong nhiều Ủy ban Hành chính, Chủ tịch, Phó chủ tịch không đủ năng lực lãnh đạo, có tỉnh thiếu cả Chủ tịch và Phó chủ tịch, có tỉnh chỉ có 6 ủy viên, nhiều huyện chỉ có 3, 4 ủy viên. Do đó, mỗi ủy viên thường chỉ phụ trách nhiều công tác hoặc phụ trách nhiều ngành lớn, cho nên chỉ đủ thì giờ giải quyết những công việc sự vụ, không thể tập trung lực lượng phụ trách những việc quan trọng, đảm bảo sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính được tốt.

Chế độ phân công trong ủy ban chưa thành nề nếp, việc phân công lại thường thay đổi luôn.

Các cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính các cấp chưa thể hiện được đầy đủ tính chất dân chủ nhân dân chuyên chính; chưa phát huy được tích cực, trí sáng tạo của quần chúng lao động; có nơi chưa thực sự tiêu biểu khối đoàn kết rộng rãi.

2) Quyền hạn, nhiệm vụ các cấp chưa được quy định rõ ràng và thích đáng với tình hình và nhiệm vụ mới. Việc tập trung quản lý theo hệ thống dọc của các bộ, phần nào cần thiết trước đây nay không còn thích hợp nữa. Hiện nay, các Bộ thuộc các khối Kinh tế, Văn hóa, quản lý quá nhiều đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp rải rác ở các địa phương, không nắm được tình hình một cách đầy đủ, không lãnh đạo được sát đúng và kịp thời. Trong khi đó chính quyền địa phương ở sát ngay cơ sở, có thể lãnh đạo và kiểm soát có hiệu quả và kịp thời mọi công việc, thì không có trách nhiệm và không phát huy được tính tích cực và khả năng sáng tạo của mình. Ý thức dân chủ tập trung chưa thật quán triệt trong các cấp, nên các Bộ còn ôm đồm quá nhiều và chưa tạo điều kiện giao dần quyền quản lý cho địa phương; còn địa phương thì chưa thấy hết quyền hạn và trách nhiệm của mình. Tình hình nói trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện kế hoạch Nhà nước.

3) Chế độ công tác của các cấp chính quyền chưa được quy định thành nề nếp, nguyên tắc dân chủ tập trung, tập thể bàn bạc, phân công phụ trách chưa được áp dụng triệt để. Sinh hoạt của Ủy ban Hành chính không đều đặn. Có nơi Ủy ban Hành chính ít họp để bàn bạc chung. Công tác kiểm tra kém, không nắm được đầy đủ tình hình địa phương, làm việc theo lối quan liêu giấy tờ, có xã hàng năm không thấy Ủy ban Hành chính huyện về đến xã.

Do lề lối làm việc thiếu tập thể và dân chủ, nên các ủy viên không bao quát được tình hình chung, ai làm việc nấy, thiếu thống nhất, kết quả công tác bị hạn chế.

Quan hệ giữa Ủy ban Hành chính và các ngành chuyên môn thiếu chặt chẽ, thiếu tập trung. Các ngành công tác chuyên môn thường không trực tiếp làm việc với Ủy ban Hành chính cấp tương đương mà nặng về ngành dọc làm cho việc lãnh đạo thống nhất và tập trung của chính quyền địa phương không thực hiện đúng mức, cấp dưới sinh ra lúng túng, bị động. Một số ngành lại có xu hướng trách rời hẳn sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính, không báo cáo, thỉnh thị Ủy ban Hành chính.

4) Quan hệ giữa Ủy ban Hành chính với các đoàn thể nhân dân còn lỏng lẻo. Nhận thức về sự quan hệ giữa chính quyền và các đoàn thể nhân dân chưa đúng mức, chưa thấy đoàn thể nhân dân là cơ sở quần chúng của chính quyền.

5) Cấp huyện có một vai trò trọng yếu trong việc chỉ đạo cấp xã, nhưng chưa được tăng cường. Quyền hạn, nhiệm vụ chưa được rõ ràng làm trở ngại cho việc chỉ đạo công tác của cấp huyện. Quan hệ công tác giữa Ủy ban Hành chính huyện và các cơ quan chuyên môn tỉnh trong việc chỉ đạo công tác xã chưa được quy định rõ ràng. Số lượng và nhất là chất lượng của cán bộ phụ trách huyện chưa đủ đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay. Phương tiện làm việc thiếu thốn.

6) Cấp xã còn non yếu và chưa được củng cố đúng mức. Cấp xã là cấp trực tiếp thi hành các chủ trương, chính sách, nhưng bản thân yếu, cán bộ non kém về mọi mặt, bộ máy cồng kềnh, các cấp trên thiếu hướng dẫn, giúp đỡ; công tác từ trên đưa xuống quá nhiều, hội họp, sinh hoạt quá nhiều (một tháng 28 cuộc họp ở xã Quảng-định, huyện Quảng-xương, Thanh-hóa). Tư tưởng cán bộ chưa thật ổn định, trình độ chính trị, nghiệp vụ và văn hóa chưa theo kịp yêu cầu mới, đời sống gặp nhiều khó khăn, chế độ trợ cấp cho cán bộ xã chưa được giải quyết thỏa đáng.

7) Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan chính quyền chưa được tăng cường đúng mức, nhất là trong ngành về kinh tế, tài chính, văn hóa, và quan hệ giữa Đảng và chính quyền chưa được rành mạch.

II. - CHỦ TRƯƠNG KIỆN TOÀN CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

A) Mục đích, ý nghĩa.

Từ ngày hòa bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã chuyển sang giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp. Nhiệm vụ phát triển kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ nặng nề, khó khăn. Cho nên chúng ta phải kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới, đưa dần miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh giành thống nhất nước nhà.

Việc kiện toàn chính quyền địa phương nhằm làm cho chính quyền có đủ khả năng động viên đông đảo nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, quản lý công việc Nhà nước, giám đốc công tác và cán bộ chính quyền, chống quan liêu xa rời thực tế, làm cho chính quyền của ta thực sự là chính quyền của nhân dân dựa trên nền tảng công nông liên minh do Đảng lãnh đạo.

Việc mở rộng nhiệm vụ cho chính quyền địa phương, giao dần cho chính quyền địa phương quyền quản lý công tác kinh tế và văn hóa càng làm cho việc kiện toàn chính quyền địa phương trở nên cấp thiết.

B) Yêu cầu của công tác kiện toàn chính quyền địa phương.

1) Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, tăng cường nền chuyên chính dân chủ nhân dân, tăng cường hiệu lực và tác dụng của chính quyền trong việc lãnh đạo mọi mặt công tác, trong việc phát triển và cải tạo nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội.

2) Thực hiện đúng mức nguyên tắc dân chủ tập trung, tập thể lãnh đạo, đi đúng đường lối quần chúng, nhằm phát huy tích cực và tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và nhân dân lao động.

C) Nội dung kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương.

1) TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH:

[...]