NGÂN
HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
276-VP/TH
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 07 năm 1959
|
THÔNG TƯ
VỀ BIỆN PHÁP TẠM THỜI QUẢN LÝ QUỸ TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI CÁC XÍ
NGHIỆP QUỐC DOANH ĐỂ LÀM PHƯƠNG HƯỚNG TRONG LÚC TIẾN HÀNH THÍ ĐIỂM
Ngày 19 tháng 03 năm 1958 Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 148-TTg giao cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài
chính và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tiến hành công tác giám đốc và quản lý quỹ
tiền lương đối với các cơ quan Nhà nước và các xí nghiệp quốc doanh nhằm: đảm bảo
tốt công tác lãnh đạo sản xuất, đẩy mạnh việc chấp hành chế độ hạch toán kinh tế,
đồng thời tăng cường công tác quản lý tài chính và tiền tệ.
Ngày 14 tháng 02 năm 1959, Thủ
tướng Chính phủ ra Thông tư số 049-TTg giải thích mục đích, nội dung nguyên tắc
việc giám đốc và quản lý quỹ tiền lương để các Bộ và các xí nghiệp sản xuất chấp
hành.
Căn cứ vào quyết định của Chính
phủ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã tiến hành điều tra, nghiên cứu tình hình sử
dụng và bố trí lao động, tiền lương ở một số xí nghiệp và đơn vị hạch toán kinh
tế, dựa vào ý kiến trao đổi trong cuộc hội nghị giữa Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
và đại biểu các Bộ ngày 28 tháng 5 năm 1959. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
ra thông tư này tạm thời để ra biện pháp cụ thể quản lý quỹ tiền lương đối với
xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, để làm phương hướng trong khi tiến hành thí
điểm.
I. NGUYÊN TẮC
QUẢN LÝ QUỸ TIỀN LƯƠNG
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
quản lý quỹ tiền lương theo nguyên tắc:
1. Trong bước đầu Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam
áp dụng phương thức phát tiền cho xí nghiệp theo yêu cầu chi tiền lương trong
phạm vi mức kế hoạch tiền lương tháng của xí nghiệp. Sau khi trả tiền lương rồi,
sẽ dựa vào báo cáo của xí nghiệp nộp cho Ngân hàng khi rút tiền về trả lương và
các báo cáo về tình hình sản xuất, tài vụ của xí nghiệp gửi đến mà phân tích. Nếu
phát hiện bội chi quá quỹ tiền lương so mới mức thực hiện kế hoạch sản xuất, hoặc
so với kế hoạch lao động thì một mặt góp ý kiến với xí nghiệp về biện pháp khắc
phục, một mặt phản ảnh với Cục hay Bộ chủ quản biết để có biện pháp giúp đỡ xí
nghiệp đó. Hiện nay ta nặng về phương thức kiểm soát sau, nghĩa là trả lương
trong phạm vi kế hoạch và theo yêu cầu của xí nghiệp, sau đó mới nghiên cứu và
đề xuất ý kiến sau, nếu có vấn đề.
2. Căn cứ tình hình đã nắm
được là hiện nay Bộ chủ quản mới phân phối tiền lương cho xí nghiệp từng quý và
xí nghiệp tự chia quỹ tiền lương ra từng tháng, cho nên ta có thể để cho xí
nghiệp có quyền điều hòa trong quý. Hàng tháng trong một quý, xí nghiệp có thể
bội chi hay tiết kiểm chi, nhưng ba tháng cộng lại không được vượt quá số kế hoạch
tiền lương được Bộ hay Cục chủ quản phân phối trong quý đó. Trường hợp quý đó
xí nghiệp có bội chi tuyệt đối, Ngân hàng chỉ phát tiền ra theo kế hoạch tiền
lương quý, khi nào được Bộ hay Cục chủ quản cho điều chỉnh thì Ngân hàng sẽ
phát thêm số tiền lương vượt mức. Đồng thời Bộ hay Cục chủ quản cần điều chỉnh
kế hoạch tiền lương phân phối cho quý sau.
3. Trong một quý nếu tiền
lương thực tế chi ít hơn mức thực hiện kế hoạch sản xuất do cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa tổ chức sản xuất mà có, thì xí nghiệp có quyền lấy khoản tiết kiệm
chi đó bổ sung cho vốn lưu động để mở rộng sản xuất của xí nghiệp, nhưng phải
chờ Bộ Tài chính và Cục hay Bộ chủ quản xét và đồng ý mới được làm.
Những khoản thừa của quỹ tiền
lương do biên chế chưa đủ mà có, không được xem là tiết kiệm chi, số tiền thừa
này do Bộ chủ quản quyết định việc giải quyết.
II. BIỆN PHÁP
CỤ THỂ QUẢN LÝ QUỸ TIỀN LƯƠNG
A. Phân phối mức quỹ tiền
lương.
Bộ hay Cục chủ quản của xí nghiệp
khi phân phối quỹ tiền lương đã được Chính phủ phê chuẩn cho xí nghiệp về quỹ
tiền lương cả năm chia ra quý cần sao gửi cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam trung
ương một bản; khi có điều chỉnh thì cũng báo cho Ngân hàng Quốc gia trung ương
biết.
Xí nghiệp cần cung cấp cho Ngân
hàng Quốc gia địa phương quỹ tiền lương năm có chia ra quý, do Bộ hay Cục chủ
quản phân phối. Xí nghiệp dựa vào đó chia ra tháng và báo cho Ngân hàng nơi xí
nghiệp mở tài khoản, để Ngân hàng làm căn cứ tiến hành quản lý quỹ tiền lương của
xí nghiệp. Nếu trong quý xí nghiệp có điều chỉnh quỹ tiền lương, thì phải kịp
thời báo đến Ngân hàng địa phương trước ngày đến Ngân hàng rút tiền về trả
lương.
B. Kiểm soát sử dụng quỹ tiền
lương.
Như trên đã nói trong tình hình
hiện nay chúng ta phải đồng thời áp dụng cả hai hình thức kiểm soát trước và kiểm
soát sau, nhưng hình thức kiểm soát sau là chủ yếu.
1. Kiểm soát trước:
Khi xí nghiệp đến Ngân hàng rút
tiền về trả lương, phải nộp cho Ngân hàng nơi mình mở tài khoản một giấy rút tiền
để trả lương nêu rõ: kế hoạch sản lượng trong tháng, ước tính thực hiện kế hoạch
sản lượng trong tháng, kế hoạch lao động trong tháng, thực hiện kế hoạch lao động
trong tháng, kế hoạch tiền lương trong tháng và số tiền xin rút về trả lương
trong tháng (có mẫu kèm theo).
Nếu xí nghiệp mỗi tháng trả
lương hai kỳ, đối với kỳ trả lương giữa tháng, xí nghiệp chưa phải nộp giấy rút
tiền để trả lương, số tiền được rút coi như ứng trước không thể quá 50% kế hoạch
tiền lương của tháng đó. Đối với kỳ trả lương cuối tháng, xí nghiệp khi nhận số
tiền cần thiết để trả lương phải nộp giấy rút tiền để trả lương cả tháng.
Xí nghiệp khi đến rút tiền trong
tài khoản tiền gửi về trả lương phải mang theo một séc trích tài khoản như thường
lệ.
Xí nghiệp sau khi lập xong báo
cáo toàn diện về tài vụ, sản xuất, lao động tiền lương, v.v… để báo cáo lên cấp
trên thì đồng gửi cho Ngân hàng giữ tài khoản của xí nghiệp một bản.
2. Kiểm soát sau:
Kiểm soát sau là sau khi trả
lương xong và khi xí nghiệp gửi báo cáo chính thức cho Ngân hàng thì cán bộ
thanh tra tín dụng cần kịp thời nghiên cứu phân tích trong báo cáo và sau đó đến
tận xí nghiệp để cùng cán bộ của xí nghiệp nghiên cứu thêm.
Mỗi lần nghiên cứu xong, cán bộ
thanh tra tín dụng Ngân hàng lập biên bản nhận xét chủ yếu là so sánh tiền
lương thực tế xin rút với tiền lương kế hoạch, so sánh tiền lương xin rút có
phù hợp với số lao động sử dụng thực tế không, có phù hợp với mức thực hiện kế
hoạch sản lượng không, cùng với xí nghiệp tìm ra nguyên nhân lệch lạc nếu có và
đề ra biện pháp sửa chữa. Biên bản phải thông qua giám đốc xí nghiệp và các cán
bộ phụ trách chính có liên quan.
Biên bản lập thành 5 bản:
1 bản xí nghiệp giữ,
1 bản cán bộ tín dụng giữ và xếp
vào hồ sơ tiền lương của xí nghiệp tại Ngân hàng địa phương,
1 bản gửi chi nhánh Ngân hàng tỉnh
lỵ,
1 bản gửi Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam
trung ương.
1 bản gửi Cục hay Bộ chủ quản xí
nghiệp.
Nếu có vấn đề lệch lạc trong việc
chấp hành chính sách lao động thì gửi thêm cho Ty Lao động địa phương 1 bản tức
là 6 bản.
Đối với những trường hợp xí nghiệp
có tiết kiệm chi hoặc bội chi thì giải quyết như sau:
a) Về trường hợp tiết kiệm
chi:
Nếu tháng thứ nhất trong 1 quý
xí nghiệp có tiết kiệm chi, qua tháng thứ hai lại bội chi thì lấy khoản tiết kiệm
chi của tháng thứ nhất bù cho tháng thứ hai. Nếu tháng thứ ba bội chi mà số tiết
kiệm chi còn lại có thể bù được thì không thành vấn đề.
Nói chung trong 1 quý có thể lấy
số tiết kiệm chi của tháng sau bù cho bội chi tháng trước và ngược lại, nhưng số
tiết kiệm trong quý này xí nghiệp không được bù cho bội chi quý khác. Số tiết
kiệm chi trong 1 quý (không kể số thừa do biên chế chưa đủ) xí nghiệp phải báo
cáo lên Cục hay Bộ chủ quản kèm theo ý kiến đề nghị sử dụng và chờ ý kiến trả lời
mới được dùng. Ý kiến trả lời của Bộ, Cục, xí nghiệp phải sao gửi cho Ngân hàng
địa phương.
Số tiết kiệm chi do cải tiến kỹ
thuật hợp lý hóa tổ chức mà vẫn đảm bảo kế hoạch sản lượng, chất lượng thì xí
nghiệp có thể sử dụng bổ sung cho vốn lưu động, nếu Bộ chủ quản và Bộ Tài chính
đồng ý. Giấy cho phép sử dụng của Bộ Tài chính và Bộ chủ quản xí nghiệp phải
sao gửi cho Ngân hàng nơi xí nghiệp mở tài khoản.
b) Số tiền lương thừa:
Nếu vì biên chế chưa đủ mà thừa
tiền lương thì không coi là tiết kiệm chi. Số tiền thừa này do Bộ hay Cục chủ
quản quyết định việc giải quyết.
c) Về trường hợp bội chi:
Nếu tháng thứ nhất bội chi thì
xí nghiệp phải điều chỉnh quỹ tiền lương tháng thứ hai, tháng thứ ba, và cố giữ
cho toàn quý khỏi vượt, tức là xí nghiệp phải tiết kiệm chi tháng sau bù cho bội
chi tháng trước.
Nếu tháng thứ nhất thứ hai trong
quý đều bội chi, thì tháng thứ ba phải tiết kiệm chi để bù lại.
Nếu trong cả quý mà không thăng
bằng, tức là chi tiền lương thực tế vượt kế hoạch quỹ tiền lương được phân phối,
thì Ngân hàng không trả số tiền vượt kế hoạch tiền lương trong phạm vi quý, mà
Ngân hàng chỉ phát số vượt đó khi nào Bộ hay Cục chủ quản xí nghiệp có văn bản
đề nghị trả và điều chỉnh kế hoạch tiền lương các quý sau cho xí nghiệp.
III. NHỮNG VẤN
ĐỀ CẦN CHÚ Ý
Công tác quản lý quỹ tiền lương
là công tác mới, nhưng về biện pháp trên đây chỉ là sơ bộ, cho nên chúng ta phải
tiến hành thí điểm để tìm hiểu thêm tình hình, nghiên cứu bổ sung và xây dựng
thành biện pháp chính thức.
Trong công tác thí điểm chúng ta
cần chú ý:
1. Tìm hiểu các vấn đề: Bộ
hay Cục chủ quản có phân phối quỹ tiền lương cả năm chia ra quý cho xí nghiệp
không? Khi nào gửi chỉ tiêu đến xí nghiệp? Bộ hay Cục chủ quản có chia ra chỉ
tiêu quỹ tiền lương tháng không, hay xí nghiệp tự chia quỹ tiền lương của quý
ra từng tháng?
Kế hoạch sản xuất tài vụ xí nghiệp
làm bằng quý có chia ra tháng không? Khi nào gửi lên trên và trên phê duyệt gửi
trở lại? Trong lúc gửi kế hoạch sản xuất tài vụ lên trên có kèm theo kế hoạch
lao động tiền lương quý, tháng không? Việc phê duyệt của trên như thế nào? Có trả
lại kịp thời không?
Vấn đề làm và gửi kế hoạch, phê
duyệt hoàn trả kế hoạch là cơ sở để tiến hành quản lý kế hoạch trong đó có quản
lý tiền lương. Nếu việc đó chưa đều hay không kịp thời thì trở ngại cho việc quản
lý quỹ tiền lương. Đó là vấn đề chế độ kế hoạch, cần phải nghiên cứu đề ra ý kiến
bổ sung cho thích hợp với hoàn cảnh không gian, thời gian và đúng với yêu cầu
quản lý kế hoạch.
2. Tình hình quỹ tiền
lương quý hay tháng phân phối cho xí nghiệp lâu nay có được sát không và xí
nghiệp thường giải quyết như thế nào? Nếu quá rộng hay quá hẹp?
Trong việc quản lý, yêu cầu của
biện pháp tạm thời là giữ gìn cho kế hoạch tiền lương quý khỏi bị vượt, như vậy
là nếu trong quý, xí nghiệp chỉ thực hiện kế hoạch sản xuất, ví dụ được 85%
nhưng xí nghiệp có thể rút lương đến tối đa là 100%, như thế là sản xuất và
tiêu dùng mất cân đối rất không tốt, nhưng vì tình hình lao động ở xí nghiệp ta
còn có khó khăn mà chúng ta chưa sát, nên trong biện pháp chỉ để yêu cầu rất thấp
để khỏi lúng túng trong bước đầu, nhưng trong quá trình thí điểm quản lý ta
cùng xí nghiệp nghiên cứu xem đề ra như thế có quá thấp không, cần khống chế mặt
nào nữa?
Ví dụ ta khống chế thêm về mặt
lao động nữa, nghĩa là một mặt không được vượt quá kế hoạch tiền lương (khống
chế tiền lương), một mặt khác tiền lương thực trả phải bằng số biên chế (kế hoạch
lao động) nhân với tiền lương bình quân (khống chế lao động), tức là khống chế
không được vượt kế hoạch tiền lương, đồng thời số tiền trả ra phải phù hợp với
kế hoạch lao động, nghĩa là số tiền trả không thể vượt biên chế nhân với bình
quân tiền lương. Tuy có khống chế hai mặt, nhưng cũng chưa phải là cao, vì ta
chưa không chế về mặt sản lượng (sản xuất chỉ 90% thì tiền lương cũng 90%, sản
xuất 102% thì tiền lương cũng sẽ trả 102%).
3. Về vấn đề tiết kiệm
chi cần nghiên cứu xem trong trường hợp nào thì số tiền tiết kiệm chi có thể để
lên Bộ chủ quản và Bộ Tài chính xét để cho dùng bổ sung vào vốn lưu động của xí
nghiệp. Còn trường hợp nào thì không cho dùng để bổ sung vốn lưu động mà phải
do Bộ hay Cục chủ quản giải quyết. Tiền lương thừa vì biên chế chưa đủ thì giải
quyết thế nào? Có trả lại cho Bộ không? Vấn đề tiết kiệm chi do cải tiến kỹ thuật
tăng năng suất là việc cần khuyến khích, nên Chính phủ cho dùng bổ sung vốn lưu
động của xí nghiệp, nếu được Bộ chủ quản và Bộ Tài chính xét duyệt. Như thế đã
khuyến khích đúng mức chưa? Có đề nghị thêm gì không? Nghiên cứu trong hoàn cảnh
xí nghiệp xem có những yếu tố gì trở ngại cho việc chi tiền lương đúng kế hoạch,
hay không tiết kiệm được tiền lương để góp ý kiến khắc phục.
4. Nghiên cứu lề lối làm
việc giữa xí nghiệp và Ngân hàng trong việc quản lý quỹ tiền lương, nề nếp báo
cáo, biểu mẫu báo cáo, thời kỳ kiểm tra, cách lập biên bản khi đến xí nghiệp để
kiểm tra, vấn đề rút tiền lương giữa tháng, cuối tháng, v.v… Mẫu báo cáo đơn giản
khi rút lương có cần không? Ngân hàng không đòi hỏi xí nghiệp có báo cáo chính
thức nào khác báo cáo của xí nghiệp gửi cho Cục hay Bộ chủ quản, như thế có gì
trở ngại cho Ngân hàng không? Chế độ báo cáo xí nghiệp gửi lên Bộ, Cục có làm
được đầy đủ không? Nếu không thì tại sao? Thiếu báo cáo nào đó hay không làm kịp
thời báo cáo nào đó thì có trở ngại cho việc kiểm soát tiền lương không? Nếu có
trở ngại thì khắc phục như thế nào?
Để làm được thí điểm quản lý quỹ
tiền lương tốt, vấn đề chủ chốt là Đảng ủy xí nghiệp phải trực tiếp lãnh đạo.
Ngân hàng có nhiệm vụ trình bày cho Đảng ủy nắm tinh thần chính sách để vạch kế
hoạch tiến hành. Cán bộ Ngân hàng hết sức giúp đỡ Đảng ủy thực hiện kế hoạch đã
đề ra và giúp đỡ trong việc sơ kết thí điểm.
|
K.T.
TỔNG GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Tạ Hoàng Cơ
|
Xí nghiệp:
....................................................
Tài khoản tiền gửi thanh toán ......................
Số: ................................................................
|
GIẤY
RÚT TIỀN ĐỂ TRẢ LƯƠNG
Tháng …… năm 195……
|
Yêu cầu Chi nhánh Ngân hàng Quốc
gia: .....................................................................
Trích tài khoản của chúng tôi số
tiền:
..........................................................................
(bằng chữ)
......................................................................................................................
để trả lương cho công nhân viên
chức xí nghiệp chúng tôi.
SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TRONG THÁNG:
GIÁ
TRỊ SẢN LƯỢNG
|
LAO
ĐỘNG
|
TIỀN
LƯƠNG
|
Kế
hoạch
|
Ước
tính thực hiện
|
Kế
hoạch
|
Thực
tế
|
Tỷ
lệ
|
Kế
hoạch
|
Thực
tế
|
Tỷ
lệ
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phụ
trách tài vụ
Xí nghiệp
|
Ngày
…… tháng…… năm 195…
GIÁM ĐỐC XÍ NGHIỆP
|