BỘ
ĐIỆN VÀ THAN
******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
26-ĐT/VPI
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 08 năm 1977
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC
TĂNG CƯỜNG NGUỒN ĐIỆN, TRIỆT ĐỂ TIẾT KIỆM ĐIỆN, DÀNH ĐIỆN CHO SẢN XUẤT
Chấp hành Chỉ thị số 252-TTg
ngày 15-06-1977 của Thủ tướng Chính phủ, về phần mình Bộ Điện và than đã có hướng
dẫn cho các Sở trực thuộc khẩn trương thực hiện. Với các Bộ, các ngành và các địa
phương, Bộ chúng tôi xin nêu một số điểm cần làm như sau để thực hiện tốt chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ.
I. VỀ NHỮNG
NGUỒN PHÁT ĐIỆN Ở NGOÀI LƯỚI
…………….
…………….([1])
3. Theo tinh thần Chỉ thị số
252-TTg thì khi nguồn điện lưới không đủ để phục vụ, các xí nghiệp có nguồn điện
riêng sẽ không được cung cấp điện lưới hoặc chỉ được cung cấp phần công suất
còn thiếu mà thôi, nếu công suất nguồn điện riêng chưa đủ cho nhu cầu điện của
xí nghiệp có máy.
4. Đối với các xí nghiệp có nguồn
điện riêng, lâu nay vẫn dùng điện lưới, nay tự túc điện bằng máy phát của mình
hoặc cung cấp điện cho lưới bằng máy phát của mình thì công ty điện lực (Sở quản
lý và phân phối điện khu vực của công ty) có trách nhiệm xác nhận vào kế hoạch
huy động nguồn điện riêng này tính bằng kWh, vào cuối quý trước cho quý sau để
xí nghiệp có máy làm cơ sở yêu cầu Nhà nước cung cấp than dầu. Nếu là trường hợp
cung cấp điện cho lưới thì Sở quản lý phân phối điện có trách nhiệm ký hợp đồng
mua điện của xí nghiệp có máy phát. Hai bên phải tôn trọng hợp đồng đã ký và chịu
các sự ràng buộc của hợp đồng theo chế độ hợp đồng kinh tế mà Nhà nước đã quy định
tại Nghị định số 54-CP (10-03-1975). Các xí nghiệp có nguồn điện riêng không được
viện lý do khó khăn mà thoái thác việc huy động nguồn điện riêng của mình và
trong trường hợp này ngành điện có thể không chịu trách nhiệm về cung cấp điện
cho xí nghiệp đồng thời báo cáo lên bộ chủ quản để can thiệp.
5. Việc hạch toán chi phí trong
việc sử dụng nguồn điện diésel riêng để phục vụ sản xuất sẽ tiến hành theo
Thông tư số 5-TC/CN/XD ngày 25-03-1974 của Bộ Tài chính.
II. VỀ NHỮNG
BIỆN PHÁP TÍCH CỰC ĐỂ TIẾT KIỆM ĐIỆN, DÀNH ĐIỆN ƯU TIÊN CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ CÔNG NGHIỆP
A. ĐỂ BẢO ĐẢM
CHẾ ĐỘ ƯU TIÊN CUNG CẤP ĐIỆN.
1. Đối với việc bơm nước chống hạn
hoặc chống úng, việc cung cấp điện lưới ở những nơi đã có trạm bơm dùng điện lưới,
được xếp vào loại ưu tiên hàng đầu.
Ngành điện của Bộ Điện và than
chịu trách nhiệm bảo đảm về sản lượng và về chất lượng điện (điện áp và tính
liên tục). Nơi nào mà điện lưới về đến đó không còn đủ điện áp theo quy định của
quy phạm và của điều lệ cung cấp tiêu thụ điện, nhưng xét thấy vẫn còn chạy được
bơm trong một thời gian ngắn thì Công ty điện lực phải có văn bản thỏa thuận
cho trạm bơm ở đó hoặc ở khu vực đó được chạy bơm với điện áp thấp hơn điện áp
định mức trong một thời gian nhất định.
2. Công ty điện lực của Bộ Điện
và than chịu trách nhiệm nghiên cứu tách từng đường dây cao thế cung cấp điện
cho các trạm bơm quan trọng ra khỏi đường dây chung có nhiều phụ tải khác, nhằm
có thể thực hiện được chế độ ưu tiên một cách có hiệu lực cho thủy lợi.
3. Khi hạn hoặc úng mà nguồn điện
lưới không đủ, Sở quản lý và phối hợp điện khu vực sau khi báo cáo cụ thể với Ủy
ban nhân dân tỉnh và làm việc với Ủy ban nhân dân huyện, phải cắt tất cả những
phụ tải không ưu tiên móc vào đường dây hoặc vào máy biến áp của các trạm bơm
nông nghiệp để có thể bảo đảm cung cấp ưu tiên đủ số lượng và điện áp cho trạm
bơm. Chính quyền địa phương cần phối hợp với Sở quản lý và phân phối điện khu vực
để làm việc này và ngăn cấm mọi việc tự ý móc lại điện.
4. Đối với các xí nghiệp và công
trường xây dựng cơ bản của các Bộ, Tổng cục và các tỉnh, Bộ Điện và than đề nghị
Bộ, Tổng cục, tỉnh lập danh sách thứ tự ưu tiên về cung cấp điện cho từng 6
tháng (có ghi rõ số ca làm việc mỗi ngày và công suất điện cần cung cấp mỗi ca)
gửi cho Bộ Điện và than trước một tháng để Bộ Điện và than bố trí cung cấp điện.
Mỗi khi cần sửa đổi hoặc bổ sung danh sách thứ tự ưu tiên đó, các Bộ, Tổng cục,
tỉnh… làm công văn gửi cho Bộ Điện và than để điều chỉnh và bổ sung.
B. ĐỂ TIẾT KIỆM
ĐIỆN TRONG SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP.
1. Hạn chế cao điểm.
Việc dùng điện tập trung vào ban
ngày và vào các giờ đầu hôm (18 đến 22h) khiến cho trong các giờ ấy các nhà máy
điện và các đường dây dẫn điện cao thế bị quá tải, hiệu suất lò và máy của các
nhà máy điện bị giảm thấp, tổn thất điện năng do phát nhiệt trên các đường dây
tăng cao, từ đó vốn đầu tư của Nhà nước vào ngành điện phải tăng lên một cách
không hợp lý thì mới thỏa mãn được nhu cầu như thế. Để tránh tình trạng đó ngay
từ năm 1960 Hội đồng Chính phủ đã có Nghị định số 12-CP ngày 21-05-1960 về tiết
kiệm sức điện. Nghị định đã ấn định (ở điều 5) các xí nghiệp, công trường… làm
việc 1 ca, 2 ca không được dùng điện chạy máy trong giờ cao điểm, các xí nghiệp
làm việc 3 ca cần dùng điện để chạy máy trong giờ cao điểm thì phải bố trí chạy
máy thật hợp lý để tránh tiêu thụ nhiều điện. Nghị định số 12-CP ngày
21-05-1960 nay đã được văn bản quyết định số 422-TTg ngày 11-11-1976 cho thi
hành trên cả nước ta.
Như vậy, xét về mặt lợi ích kinh
tế chung cũng như về mặt chế độ của Nhà nước, các xí nghiệp làm việc 1 ca và 2
ca không được cấp điện lưới vào các giờ cao điểm. Cao điểm về điện buổi tối là
từ lúc 18h đến 22h hàng ngày, gọi là “cao điểm tối”. Buổi sáng từ 6h đến 10h
cũng là một thời gian cao điểm gọi là “cao điểm sáng”. Tuy nhiên vào các giờ
cao điểm sáng các xí nghiệp làm việc 2 ca (16h) vẫn đương nhiên được cung cấp
điện.
Tóm lại để thực hiện chế độ nói
trên, Bộ Điện và than quy định như sau:
- Các xí nghiệp làm việc 1 ca được
cung cấp điện lưới từ 9h đến 17h hoặc từ 10h đến 18h.
- Các xí nghiệp làm việc 2 ca được
cung cấp điện lưới từ 10h cho đến 18h và từ 22h cho đến 6h hoặc liên tục từ lúc
22h cho đến 16h hôm sau nếu muốn tránh sự gián đoạn giữa 2 ca kế tiếp.
2. Nghỉ luân phiên.
Việc nghỉ chủ nhật vào các ngày
khác trong tuần lễ đã được quy định từ lâu và đã thành nền nếp, có tác dụng tận
dụng công suất của lưới điện vào cả ngày chủ nhật. Điều này cũng đã được quy định
ở Nghị định số 12-CP nói trên (Điều 7). Các xí nghiệp, công trường trong mỗi
khu vực, mỗi tỉnh, thành cần tiếp tục thực hiện chế độ này. Sở quản lý và phân
phối điện khu vực có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương quy định,
giám sát và kiểm tra việc thi hành.
3. Nâng cao hệ số công suất.
Hệ số công suất (Cosj) quá thấp ở
những nơi dùng điện đòi hỏi các nhà máy điện phải phát nhiều điện năng vô công
và tải đến để bù lại cho nơi dùng điện khỏi bị tụt điện áp đến mức quá thấp. Việc
tải công suất vô công này không những làm cho tổn thất điện năng trên các đường
dây tăng lên một cách lãng phí mà còn hạn chế khả năng phát công suất hữu công
của các nhà máy điện.
a) Để tránh lãng phí này, các xí
nghiệp công trường, nông trường cần tắt những động cơ không làm việc, không được
để chạy không tải và cũng không nên cho các động cơ chạy non tải.
b) Việc cho hoạt động các máy bù
quay hoặc các bộ tụ điện tĩnh đã đặt ở một số xí nghiệp góp phần không nhỏ vào
việc nâng cao hệ số công suất (Cosj) và tránh lãng phí nói trên.
Các Bộ, các ngành, và các tỉnh cần
chỉ thị cho các xí nghiệp của mình chú ý thực hiện việc này.
Sở quản lý và phân phối điện khu
vực có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và giúp đỡ, hướng dẫn về mặt kỹ thuật.
4. Định mức, chỉ tiêu sử dụng
điện cho một sản phẩm và chỉ tiêu công suất điện cho xí nghiệp; quản lý chặt chẽ
các định mức đó.
Điện là một loại vật tư kỹ thuật
quan trọng của Nhà nước nhưng cho đến nay việc quản lý chỉ tiêu điện dùng cho mỗi
sản phẩm công nghiệp chưa được quan tâm. Từ nay mỗi cơ sở dùng điện đều phải
xây dựng định mức điện tính bằng kWh cho mỗi sản phẩm của cơ sở mình và định mức
công suất tính bằng kW cần thiết cho mỗi ca trong ngày căn cứ vào kế hoạch sản
xuất được Nhà nước giao.
Bảng định mức chỉ tiêu điện dùng
cho mỗi sản phẩm của cơ sở do cơ sở tự xây dựng và được Sở quản lý và phối hợp
điện thuộc Bộ Điện và than góp ý kiến. Bảng định mức này phải gửi Bộ chủ quản của
cơ sở dùng điện, đồng gửi cho Bộ Điện và than, để được xét công nhận với sự
tham gia của Bộ Điện và than. Sau khi được Bộ chủ quản duyệt bảng định mức chỉ
tiêu dùng điện này sẽ được thông báo lại cho cơ sở dùng điện và cho Công ty điện
lực thuộc Bộ Điện và than để làm cơ sở ký hợp đồng cung cấp và tiêu thụ điện giữa
hai bên.
C. ĐỂ TIẾT KIỆM
ĐIỆN TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP.
1. Các trạm bơm thủy lợi phải
tôn trọng chế độ giờ vận hành mà Bộ Thủy lợi (Cục thủy nông) và Bộ Điện và than
(Công ty điện lực) đã phối hợp quy định và thông báo từng thời gian. Trừ các
trường hợp được quy định cụ thể (đối với các trạm bơm lớn đầu mối hoặc lúc úng
hạn nặng) tất cả các trạm bơm phải chạy vào các giờ từ 22h đến 6h và từ 10h đến
18h, không được chạy vào các giờ cao điểm tối (từ 18h đến 22h).
2. Các máy bù Cốc thành (Hà Nam
Ninh) phải đưa vào vận hành. Các bộ tụ điện đã lắp cho các trạm bơm cũng đều phải
đưa vào vận hành. Các Sở quản lý và phân phối điện thuộc Công ty điện lực chịu
trách nhiệm đôn đốc và giúp đỡ về mặt kỹ thuật trong việc vận hành các thiết bị
này.
D. ĐỂ TIẾT KIỆM
ĐIỆN TRONG VIỆC DÙNG CHO SINH HOẠT.
1. Nay tạm thời quy định mức điện
sinh hoạt bình quân cho mỗi hộ gia đình có diện tích ở chính không quá 30m2
là không quá 30 kWh/tháng, những trường hợp cụ thể cần cung cấp theo định mức
cao hơn thì phải được Sở quản lý và phối hợp điện đề nghị Bộ Điện và than duyệt.
Hộ dùng điện sinh hoạt nào dùng
quá tiêu chuẩn được quy định thì tháng sau không được cung cấp đủ. Vi phạm ba
tháng liên tiếp thì có thể bị cắt điện không cung cấp nữa.
2. Cán bộ, công nhân, viên chức
trong biên chế phải gương mẫu chấp hành chủ trương tiết kiệm điện, phải tự mình
trả tiền phần điện dùng quá tiêu chuẩn cung cấp theo chế độ hiện hành về nhà ở,
điện nước.
3. Cơ quan và xí nghiệp đều phải
xem xét lại số đèn, quạt và các dụng cụ sinh hoạt khác của mình, giảm những thứ
ít cần thiết như đèn bảo vệ, bếp điện (trừ bếp điện của phòng y tế dùng để luộc
kim tiêm).
Sở quản lý và phân phối điện có
trách nhiệm soát lại tình hình dùng điện của các xí nghiệp và cơ quan, phối hợp
với xí nghiệp, cơ quan đó mà cùng nhau quy định một định mức điện dùng hàng
tháng, xí nghiệp hoặc cơ quan và phía cung cấp điện (Sở quản lý và phối hợp điện)
đều phải chấp hành nghiêm chỉnh định mức đó, từng tháng không được vượt quá
10%.
4. Các hộ dùng điện sinh hoạt có
sử dụng bếp điện, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, đều phải kê khai cho Sở quản lý
và phân phối điện.
Mặc dù đã kê khai, hiện nay bếp
điện không được dùng, trừ các cơ sở y tế dùng cho công tác chuyên môn.
5. Các sở quản lý và phối hợp điện
có trách nhiệm tăng cường việc lắp công tơ đếm điện cho các hộ dùng điện sinh
hoạt. Bước đầu dùng biện pháp một công tơ chính với không quá 8 công tơ phụ kèm
theo, tiến tới mỗi hộ dùng điện được đặt 1 công tơ chính.
Hộ nào đã tự mua được công tơ
thì sở quản lý và phối hợp điện có trách nhiệm bán bảng gỗ, cầu chì, cáp chì,
và lắp đặt công tơ cho hộ đó. Khi hộ dùng điện này đã trở thành một hộ chính thức
thì công tơ trở thành công tơ chính phải là tài sản của sở quản lý và
phân phối điện, cho nên lúc ấy sở quản lý và phân phối điện
phải thanh toán lại tiền mua công tơ cho khách hàng của mình theo giá Nhà nước
và theo tỷ lệ giá trị còn lại của công tơ đó.
6. Tất cả các cơ quan, cửa hàng,
rạp hát, rạp xiếc, rạp chiếu bóng đều không được tự ý thắp đèn trang trí, nếu
đã lắp thì không được bật điện. Vào những ngày quốc lễ hoặc những ngày có công
tác đối ngoại cần thiết của Nhà nước, mức độ trang trí bằng điện sẽ có quy định
cụ thể riêng.
III. NHỮNG BIỆN
PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Về phần các cơ sở sử dụng điện.
Tất cả các cơ quan, đơn vị sản
xuất, đơn vị xây dựng, bệnh viện, trường học, v.v… đều phải phổ biến quán triệt
tinh thần chỉ thị số 252-TTg ngày 15-06-1977 của Thủ tướng Chính phủ và Thông
tư hướng dẫn này. Tại các địa phương, dùng mọi hình thức để phổ biến đến tận tiểu
khu; các huyện xã, thị trấn, thị xã, có lưới điện.
A. CÁC ĐƠN VỊ VÀ CƠ QUAN CẦN LÀM
NHỮNG VIỆC SAU ĐÂY:
1. Đăng ký cho Công ty điện lực
(các Sở quản lý và phối hợp điện khu vực) các yêu cầu ghi ở điểm 4, mục B và điểm
3, mục D nói trên: định mức sử dụng điện, công suất, định lượng điện ánh sáng,
v.v…
2. Lập ngay kế hoạch củng cố và huy động nguồn điện nhỏ, kế hoạch sử dụng điện
và biện pháp tiết kiệm điện. Cùng với cơ quan cung cấp điện thống nhất kế hoạch
cung cấp và sử dụng điện.
3. Ban hành bổ sung hoặc sửa đổi
những nội quy về sử dụng điện trong cơ quan, xí nghiệp cho phù hợp với tinh thần
chỉ thị số 252-TTg đồng thời tổ chức kiểm tra đôn đốc chặt chẽ việc sử dụng điện
trong đơn vị để bảo đảm thật tốt việc điều hòa tiết kiệm điện.
B. ĐỐI VỚI VIỆC DÙNG ĐIỆN SINH
HOẠT:
1. Từng đơn vị, tiểu khu tổ chức
đăng ký thiết bị điện, định lượng điện một tháng và vận động dùng điện tiết kiệm.
2. Xây dựng và phổ biến nội quy
dùng điện và cử người quản lý điện trong đơn vị, trong ban quản trị hay ban đại
diện tiểu khu để cộng tác với sở quản lý phân phối điện thực hiện kế hoạch
cải tạo và quản lý điện ánh sáng sinh hoạt.
Về phía cơ quan cung cấp điện:
1. Phối hợp với các cơ quan
chính quyền địa phương và các đơn vị sản xuất của các ngành, hướng dẫn việc tổ
chức thực hiện các điều quy định trên đây.
2. Phối hợp với các cơ quan đài
báo và các cơ quan tuyên giáo địa phương mở đợt tuyên truyền sâu rộng về vấn đề
sử dụng điện an toàn, hợp lý và tiết kiệm.
3. Phối hợp với các ngành, các cấp
chính quyền, đoàn thể quần chúng địa phương phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa của nhân dân lao động, kiểm tra giám sát tình hình cung cấp và sử dụng
điện để phát hiện những đơn vị và cá nhân làm đúng và chưa đúng, kịp thời nhắc
nhở đưa vào nền nếp.
IV. XỬ LÝ THƯỞNG
PHẠT
A. ĐỐI VỚI NHỮNG VIỆC LÀM TỐT.
1. Các cơ quan, đơn vị thực hiện
có kết quả kế hoạch tiết kiệm điện được ngành điện (Sở quản lý và phân phối điện
hoặc công ty điện lực) đề nghị với cơ quan chủ quản cấp trên của cơ quan, đơn vị
đó khen thưởng; ngành điện có thể đưa tin lên đài, báo để biểu dương.
2. Những đơn vị, cá nhân phát hiện
những vi phạm về sử dụng điện, sau khi sự việc được kiểm tra và xử lý có thể được
ngành điện (Công ty điện lực thuộc Bộ Điện và than) thưởng từ 5 đến 10% tiền phạt
thu được.
B. ĐỐI VỚI VIỆC VI PHẠM DÙNG ĐIỆN
TRONG SẢN XUẤT.
1. Nếu sử dụng quá công suất đã
đăng ký và được phân phối trong giờ cao điểm thì lần thứ nhất bị cảnh cáo, lần
thứ hai có thể bị cắt điện.
2. Nếu ca 3 dùng ít công suất
thì lấy mức đó để khống chế công suất dùng cho ban ngày (đối với xí nghiệp 2
ca) và cho giờ cao điểm (đối với xí nghiệp 3 ca).
3. Nếu xí nghiệp lấy điện vào
ngày quy định phải nghỉ tuần mà không lấy điện vào ngày chủ nhật tức là vi phạm
chế độ nghỉ chủ nhật và những ngày khác trong tuần thì tạm ngừng cấp điện chờ đến
khi xí nghiệp đó chấp hành đúng mới cấp trở lại.
4. Nếu dùng quá chỉ tiêu định mức
đã đăng ký không tiết kiệm điện trong sản xuất, bộ phận kiểm tra sẽ lập biên bản
báo về cơ quan chủ quản cấp trên để xử lý.
C. ĐỐI VỚI VIỆC VI PHẠM DÙNG ĐIỆN
TRONG SINH HOẠT.
1. Tháng này dùng quá lượng điện
đã định mức cho mỗi tháng thì phải trừ vào tháng sau.
2. Nếu dùng điện để đun nấu thì
cũng cắt điện và bị tịch thu những dụng cụ điện đó.
3. Nếu lợi dụng điện để sản xuất
nước đá bán kiếm lời sẽ bị cơ quan chính quyền địa phương xử lý.
D. ĐỐI VỚI NHỮNG VIỆC LÀM TÙY TIỆN
SAI TRÁI CỦA NGÀNH ĐIỆN.
Nhân dân và các cơ quan, đoàn thể
đều có quyền phê phán, khiếu nại, tố giác kịp thời với các địa phương và với Bộ
Điện và than để xử lý và bắt sửa chữa, hoặc bắt buộc đền bù thiệt hại. Căn cứ
vào điều lệ cung cấp, tiêu thụ điện hiện hành và hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa
bên cung cấp và bên sử dụng điện.
E. QUYỀN HẠN LẬP BIÊN BẢN VÀ XỬ
LÝ.
1. Các đoàn kiểm tra của cơ quan
cung cấp điện có đủ giấy tờ hợp lệ hoặc thẻ kiểm tra điện của Bộ Điện và than cấp
được quyền kiểm tra, lập biên bản và xử lý các trường hợp vi phạm.
2. Các đoàn kiểm tra của cơ
quan, xí nghiệp và chính quyền các cấp đều có quyền lập biên bản về các vụ vi
phạm, xử lý về mặt hành chính trong nội bộ và chuyển giao cơ quan cung cấp điện
xử lý về mặt kinh tế.
3. Những cán bộ, nhân viên của Sở
quản lý và phân phối điện đi làm các việc kiểm tra điện, đóng, cắt điện, điều
chỉnh công tơ điện phải có giấy công tác do Sở quản lý và phân phối điện
cấp. Khi đến làm nhiệm vụ phải xuất trình giấy tờ đó cho xí nghiệp, cơ quan hoặc
hộ dùng điện biết.
4. Nghiêm cấm cán bộ, công nhân,
viên chức ngành điện đòi hỏi những điều không hợp pháp hoặc không hợp lý với cơ
quan, xí nghiệp, hộ dùng điện.
Để thực hiện tốt chỉ thị số
252-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Điện và than yêu cầu các ngành, các địa
phương và tất cả các cơ quan đơn vị sử dụng điện thực hiện những quy định trong
thông tư này và giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan cung cấp điện làm tròn nhiệm
vụ, đồng thời phát hiện những vấn đề cần bổ sung điều chỉnh để những quy định
được thêm sát, đúng với yêu cầu chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ ĐIỆN VÀ THAN
Nguyễn Chấn
|
[1] Không in điểm 1 và 2.