ỦY
BAN THANH TRA CỦA CHÍNH PHỦ
****
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*****
|
Số:
02-TT/TTr
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 04 năm 1976
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 25-TTg NGÀY 9-1-1976 CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TỔ CHỨC BAN THANH TRA NHÂN DÂN.
Thi hành quyết định số 25-TTg ngày
9-1-1976 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức Ban thanh tra nhân dân ở các đơn
vị cơ sở chính quyền, kinh tế, sự nghiệp, Ủy ban thanh tra của Chính phủ bước đầu
hướng dẫn một số điểm chính về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân
để các ngành, các cấp vận dụng thực hiện.
I. VỊ TRÍ, Ý
NGHĨA VÀ TÁC DỤNG CỦA CÔNG TÁC THANH TRA NHÂN DÂN
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa của ta thể hiện sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động. Trong hoạt động của mình, Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng
quyền làm chủ tập thể của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và
nghiên cứu ý kiến nhân dân. Do đó, tạo điều kiện và tổ chức cho nhân dân thực
hiện quyền kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cán bộ, công nhân, viên chức,
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế tập thể, là một trong những biện pháp
quan trọng để không ngừng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đơn vị cơ sở là nơi trực tiếp chấp
hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi động viên, giáo dục,
tổ chức mọi người phấn đấu đấu hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, công tác và chăm
lo đời sống của nhân dân…. Nhân dân lao động ở cơ sở là người trực tiếp sản xuất
và công tác nên có điều kiện thấu hiểu tình hình hàng ngày xảy ra ở cơ sở. Vì vậy
giáo dục phát động nhân dân nâng cao ý thức giác ngộ và tổ chức tốt cho nhân dân
thực hiện quyền làm chủ tập thể ở ngay đơn vị cơ sở thì chắc chắn họ sẽ phát hiện
kịp thời và đúng đắn những mặt tốt, những người tốt để động viên cổ vũ mọi người
hăng hái thi đua sản xuất, công tác, đồng thời cũng phát hiện và uốn nắn kịp thời
những mặt tiêu cực, khuyết điểm trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước.
Việc tổ chức ban thanh tra nhân dân
thể hiện trách nhiệm và quyền hạn của nhân dân thực sự làm chủ tập thể ở ngay
đơn vị cơ sở. Đó là tổ chức thanh tra của nhân dân, do nhân dân lựa chọn cử ra
và được nhà nước công nhận. Nó có trách nhiệm động viên rộng rãi quần chúng
nhân dân trong đơn vị cơ sở, kiểm tra công việc của mình và của mọi người trong
đơn vị để phát huy mặt tốt trong lao động, công tác, đời sống, ngăn ngừa và sửa
chữa những thiếu sót, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh, hoàn thành mọi nhiệm
vụ của đơn vị.
Thanh tra là một khâu công tác quan
trọng trong toàn bộ công tác quản lý của bộ máy Nhà nước. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ, công tác thanh tra phải được tiến hành theo phương châm “kiểm tra một cách
thường xuyên, kịp thời, rộng khắp, chính xác, có trọng tâm, trọng điểm, phải kết
hợp kiểm tra từ trên xuống với kiểm tra từ dưới lên, kết hợp kiểm tra của cán bộ
lãnh đạo, của quần chúng với việc thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên
trách…”
Thực hiện phương châm trên, cần phải
tổ chức ban thanh tra nhân dân để động viên đông đảo nhân dân tích cực tham gia
kiểm tra, giám sát từ dưới lên, bổ sung hỗ trợ, gắn bó với hình thức kiểm tra từ
trên xuống thành một hệ thống mạng lưới thanh tra hoàn chỉnh bao gồm kiểm tra của
thủ tướng, thanh tra chuyên trách và thanh tra nhân dân.
Trong tình hình mới hiện nay, Hội đồng
Chính phủ vừa ra nghị quyết số 19-CP ngày 29-1-1976 về chấn chỉnh tổ chức sản
xuất, đưa quản lý kinh tế vào nền nếp và cải tiến một bước trong lĩnh vực công
nghiệp mà yêu cầu là phải “ thực hiện sự chuyển biến tại cơ sở, từ yêu cầu của
cơ sở mà phát hiện và giải quyết các vấn đề ở cấp trên, để rồi lại trở về phục
vụ tốt cho cơ sở” và nghị quyết số 61-CP về cuộc vận động tổ chức lại sản xuất,
cải tiến một bước quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp từ cơ sở. Tổ chức Ban thanh
tra nhân dân lúc này, kịp thời đưa nó vào hoạt động và phục vụ cho việc thực hiện
tốt các nghị quyết nói trên sẽ có tác dụng động viên phong trào, góp phần làm
chuyển biến và củng cố cơ sở vững mạnh, cải tiến sự chỉ đạo của các ngành, các
cấp đối với cơ sở, phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước.
II. TỔ CHỨC BAN
THANH TRA NHÂN DÂN Ở CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ
Nói đơn vị cơ sở tức là nói đến đơn
vị trực tiếp sản xuất, kinh doanh, hoặc công tác. Đơn vị cơ sở có thể lớn, nhỏ
tùy theo nội dung nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức quy định cho nó. Trong hoàn cảnh
hiện nay, việc tổ chức Ban thanh tra nhân dân ở các đơn vị cơ sở phải chú ý đến
các điều sau:
1. Bảo đảm cho hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân gắn với sản xuất, kinh doanh, công tác của cơ sở, có tác dụng
phục vụ thiết thực cho đơn vị cơ sở.
2. Thuận tiện cho sự lãnh đạo của tổ
chức Đảng, cho việc chỉ đạo của thủ trưởng và mối quan hệ phối hợp công tác với
các đoàn thể ở đơn vị cơ sở đó.
3. Đơn vị cơ sở có quy mô trên 100
người thì tổ chức một Ban thanh tra nhân dân. Trường hợp số lượng người ít hơn,
nhưng do tính chất quan trọng của đơn vị thì cũng có thể tổ chức một Ban thanh
tra nhân dân.
4. Đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp
của đơn vị cơ sở có cơ quan thanh tra chuyên trách để trực tiếp hướng dẫn công
tác nghiệp vụ cho Ban thanh tra nhân dân.
Căn cứ vào các điều trên, Ủy ban
thanh tra của Chính phủ bước đầu quy định những đơn vị cơ sở tổ chức Ban thanh
tra nhân dân gồm có:
- Cơ sở chính quyền: xã, tiểu khu
(thuộc khu phố), thị trấn;
- Cơ sở kinh tế: nhà máy, hầm mỏ,
công trường, nông trường, lâm trường, đội vận tải tổng kho, cửa hàng;
- Cơ sở sự nghiệp: bệnh viện, trường
học, cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu khoa học.
Ngoài những đơn vị cơ sở quy định
như trên, gặp trường hợp khó xác định cần xin ý kiến của lãnh đạo cấp trên và
cơ quan thanh tra chuyên trách.
Ban thanh tra ngành cần giúp Bộ chủ
quản nghiên cứu và trao đổi với Ủy ban thanh tra của Chính phủ để quy định loại
đơn vị cơ sở của ngành có tổ chức Ban thanh tra nhân dân cho thích hợp.
III. NHIỆM VỤ CỦA
BAN THANH TRA NHÂN DÂN
Công tác thanh tra nhân dân là một
hoạt động của quần chúng rộng rãi, do đó điều trước nhất của Ban thanh tra nhân
dân là phải kết hợp cùng các đoàn thể nhân dân để động viên, tổ chức quần chúng
nhân dân tham gia vào các hoạt động kiểm tra, giám sát trong đơn vị.
Thực hiện được yêu cầu đó, Ban
thanh tra nhân dân mới có điều kiện làm tốt việc tham gia giúp đỡ thủ trưởng
đơn vị hoặc trực tiếp tiến hành công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị, thỉnh cầu trong đơn vị. Nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân
đã được quy định theo điều 2 của quyết định bao gồm các nội dung chủ yếu sau (các
ngành sẽ cụ thể hóa tùy theo tính chất của từng loại cơ sở).
1. Về nhiệm vụ kiểm tra:
a) Nội dung công tác kiểm tra bao gồm:
- Kiểm tra xem có làm đúng và tốt
chức trách và nhiệm vụ được giao;
- Kiểm tra việc chấp hành các chủ
trương chính sách của Đảng, Chính phủ, luật pháp của Nhà nước, các chế độ, nội
quy của đơn vị; chú trọng đến các vấn đề: chính sách, chế độ về quản lý kinh tế;
các chính sách, chế độ có liên quan đến đời sống tinh thần và vật chất của cán
bộ, công nhân viên và của nhân dân; việc tổ chức quản lý kinh tế, quản lý đời sống
của đơn vị.
b) Hoạt động thanh tra nhằm phát
huy ưu điểm, ngăn ngừa, sửa chữa khuyết điểm, do đó cần chú ý phát hiện kịp thời
khi mới có hiện tượng tiêu cực để ngăn chặn sự phát triển và có biện pháp bài
trừ.
Các hiện tượng tiêu cực trong đơn vị
thường biểu hiện ở nhiều mặt, ví dụ: không chấp hành nghiêm chỉnh các chính
sách, chế độ; kỷ luật lao động lỏng lẻo; đoàn kết nội bộ không tốt; quan liêu,
thiếu trách nhiệm để xảy ra tham ô, lãng phí…
Bài trừ các hiện tượng tiêu cực nhằm
không để thiếu sót tái diễn, thể hiện tính chất triệt để của thanh tra nhân
dân. Có phát hiện kịp thời và bài trừ được các hiện tượng tiêu cực mới thúc đẩy
được hoàn thành kế hoạch, xây dựng đơn vị vững mạnh. Đối với những việc nghiêm
trọng, có nhiều khó khăn phức tạp, không có điều kiện đi sâu kiểm tra thì Ban
thanh tra nhân dân báo cáo với lãnh đạo đơn vị và cơ quan thanh tra chuyên
trách cấp trên.
2. Về nhiệm vụ tham gia góp ý kiến,
xét giải quyết khiếu nại, tố cáo:
a) Việc xét giải quyết các đơn khiếu
nại, tố cáo, các kiến nghị, thỉnh cầu thuộc trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị phải
thực hiện theo luật pháp quy định. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ có tác dụng
phát huy quyền làm chủ tập thể của mọi người, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
với quần chúng, tăng cường đoàn kết nội bộ, thúc đẩy hoàn thành kế hoạch, góp
phần xây dựng đơn vị vững mạnh.
b) Ban thanh tra nhân dân tham gia
góp ý kiến xét giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các mặt:
- Đề nghị thủ trưởng đơn vị xét giải
quyết các đơn khiếu nại, tố cáo kịp thời và đúng nguyên tắc, chế độ đã quy định.
- Khi cần thiết, trực tiếp tìm hiểu
nội dung khiếu nại, tố cáo, gặp gỡ đương sự, nghiên cứu phân tích tài liệu tình
hình thu lượm được, qua đó tham gia ý kiến với thủ trưởng đơn vị về nội dung và
cách giải quyết.
- Khi việc đã được thủ trưởng kết
luận và xử lý thì theo dõi việc tổ chức thực hiện, động viên quần chúng giám
sát việc thực hiện.
- Nếu đương sự chưa đồng tình với kết
luận của thủ trưởng, tiếp tục khiếu nại thì bàn với thủ trưởng kiểm tra lại,
tránh dồn lên cấp trên; khi cần thiết đề nghị cơ quan thanh tra chuyên trách cấp
trên nghiên cứu giải quyết.
c) Với các loại kiến nghị, thỉnh cầu
cùa quần chúng nhân dân, Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm:
- Khuyến khích các kiến nghị, thỉnh
cầu chính đáng có tác dụng góp phần cải tiến công tác quản lý, thúc đẩy hoàn
thành kế hoạch của đơn vị;
- Góp ý để thủ trưởng đơn vị nghiên
cứu và đề ra các chủ trương, biện pháp sửa chữa;
- Theo dõi việc thực hiện và động
viên quần chúng nhân dân giám sát việc thực hiện.
d) Trường hợp phát hiện đương sự thực
sự bị oan ức, quyền dân chủ trong khiếu nại, tố cáo bị vi phạm. Ban thanh tra
nhân dân phải chủ động đặt vấn đề với thủ trưởng đơn vị hoặc cơ quan thanh tra
chuyên trách cấp trên nghiên cứu xét giải quyết cho đúng đắn.
IV. QUYỀN HẠN CỦA
BAN THANH TRA NHÂN DÂN
Quyền hạn được quy định cho Ban
thanh tra nhân dân là nhằm tạo điều kiện cho Ban thanh tra nhân dân thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao. Nội dung quyền hạn thể hiện rõ vai trò làm chủ tập thể và
quyền tham gia quản lý của quần chúng nhân dân, thường xuyên xem xét mọi vấn đề
xảy ra trong đơn vị. Ban thanh tra nhân dân được tổ chức thường xuyên và đột xuất
các cuộc kiểm tra trong phạm vi của đơn vị, đề ra các kết luận, kiến nghị sau
các cuộc kiểm tra. Việc xem xét các kết luận, kiến nghị đó, và quyết định các
biện pháp sửa chữa là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể
trong đơn vị.
Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm
sử dụng đúng đắn quyền hạn đó để làm tròn nhiệm vụ của mình, với thái độ chân
thành, khiêm tốn và lấy giáo dục thuyết phục làm chính; tạo nên sự đoàn kết nhất
trí giữa Ban thanh tra nhân dân với lãnh đạo và mọi người trong khi thực hiện
nhiệm vụ.
Quyết định số 25-TTg đã quy định 5
quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân, khi sử dụng quyền hạn được quy định, cần
chú ý:
a) Vấn đề yêu cầu cung cấp tài liệu,
nắm tình hình, cần cân nhắc, chỉ nên tìm hiểu, nghiên cứu những tài liệu cần
thiết cho cuộc thanh tra đang tiến hành. Với những tài liệu thuộc phạm vi bí mật
Nhà nước, nếu cần tham khảo, phải theo đúng những điều quy định về pháp lệnh giữ
gìn bí mật của Nhà nước.
b) Việc gặp gỡ nhân chứng, Ban
thanh tra nhân dân giữ mối liên hệ thường xuyên với mọi người trong đơn vị, nhờ
đó mà nắm được kịp thời những hiện tượng tiêu cực xảy ra. Trường hợp thủ trưởng
đơn vị yêu cầu hoặc tự mình thấy cần phải đi sâu xác minh nghiên cứu, Ban thanh
tra nhân dân gặp tập thể hoặc cá nhân với yêu cầu, nội dung cụ thể; có thể đề
nghị các tổ chức đoàn thể, công an, tổ hòa giải… ở trong đơn vị cơ sở phối hợp
giúp đỡ nghiên cứu xác minh những vấn đề có liên quan.
c) Lập biên bản nhằm ghi lại nội
dung việc xảy ra lúc đó cùng với nhân chứng, vật chứng làm cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết sau này. Nội dung biên bản gồm các vấn đề;
- Tình tiết việc xảy ra
- Các vật chứng, nhân chứng có mặt
khi việc xảy ra;
- Sơ bộ nhận xét, các ý kiến khác
nhau, ý kiến đề nghị tiếp tục giải quyết;
- Chữ ký của đương sự, của người
làm chứng, của Ban thanh tra nhân dân. Nếu đương sự không ký cũng cần ghi rõ.
d) Vấn đề kết luận, kiến nghị; với
những vấn đề chỉ có tính chất phát hiện tình hình và phản ánh kịp thời cho thủ
trưởng đơn vị để có chủ trương tiếp tục nghiên cứu giải quyết không đòi hỏi phải
có những kết luận, kiến nghị đầy đủ. Trái lại khi cần phải tổ chức rõ rệt một
cuộc thanh tra thì sau đó cần có kết luận, kiến nghị đầy đủ, và bao gồm nội
dung chính sau đây:
- Bản chất, tình tiết của việc xảy
ra, các tác hại có thể có, nguyên nhân;
- Trách nhiệm của người trực tiếp
gây ra và người có liên quan, của lãnh đạo đơn vị;
- Kiến nghị các biện pháp sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm, các hình thức khen thưởng, kỷ luật cần thiết.
e) Báo cáo với cơ quan thanh tra
chuyên trách cấp trên, mục đích của báo cáo nhằm phản ánh kịp thời tình hình và
kết quả hoạt động của Ban, những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải trong công
tác cần được sự giúp đỡ, hướng dẫn của cơ quan thanh tra chuyên trách.
V. TỔ CHỨC BAN
THANH TRA NHÂN DÂN
1. Đề cử và bầu cử:
Đảng ủy, Mặt trận và các đoàn thể ở
cơ sở cùng giới thiệu người vào Ban thanh tra nhân dân. Ban thanh tra nhân dân
được bầu theo như điều 4 của quyết định.
Ở các đơn vị cơ sở kinh tế, sự nghiệp,
áp dụng một trong hai hình thức:
- Đại hội: đơn vị ít người (dưới
200) cơ sở tập trung, gọn, có điều kiện tập hợp đông đủ.
- Đại biểu đại hội: đơn vị đông người,
cơ sở xa nhau, phân tán, khó tập hợp đông đủ. Các đại biểu được chọn theo các bộ
phận công tác trong đơn vị như phòng, ban, phân xưởng, tổ, đội…
Ở các cơ sở chính quyền: áp dụng
hình thức đại biểu đại hội. Ở xã, các đại biểu hộ thuộc khu vực của đội sản xuất
cơ bản, còn ở tiểu khu, thị trấn thì các đại biểu hộ trong tổ dân phố sẽ bầu ra
đại biểu của mình để đi dự đại biểu đại hội toàn xã, tiểu khu, thị trấn.
Trường hợp tình hình ở cơ sở chính
quyền đương có những vấn đề phức tạp, nếu tổ chức bầu cử sẽ gặp nhiều khó khăn
thì áp dụng việc đề cử, Ủy ban hành chính cấp cơ sở công nhận. Khi áp dụng hình
thức nói trên, cần trao đổi với cơ quan thanh tra chuyên trách cấp trên trực tiếp.
Cứ 15 đến 25 người (ở đơn vị cơ sở
kinh tế, sự nghiệp) hoặc từ 15 đến 25 hộ (ở đơn vị cơ sở chính quyền) được cử một
đại biểu đi bầu Ban thanh tra nhân dân.
Số lượng cụ thể thành viên Ban
thanh tra nhân dân do đại hội (hoặc đại biểu đại hội) quyết định trong phạm vi
được quy định từ 5 đến 15 người.
Nguyên tắc bầu cử là dân chủ, bỏ
phiếu kín và người trúng cử theo đa số tương đối. Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn
và quyền quyết định bầu ai là của các đại biểu, cần chú ý đến cấu tạo của Ban
thanh tra nhân dân có người của cấp ủy Đảng, các đoàn thể nhân dân, có người ở
các bộ phận khác nhau của đơn vị tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp công
tác giữa Ban thanh tra nhân dân với các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy
cơ sở, và cho Ban thanh tra nhân dân nắm tình hình và giải quyết được kịp thời,
toàn diện và đúng đắn.
2. Công nhận và bãi miễn:
Sau khi Ban thanh tra nhân dân được
bầu, Ủy ban hành chính hoặc thủ trưởng đơn vị cơ sở ra quyết định công nhận, cấp
giấy chứng nhận, tổ chức việc giới thiệu với các bộ phận và mọi người trong đơn
vị.
Việc công nhận thể hiện tính chất hợp
pháp của tổ chức đó, và cũng nói lên trách nhiệm của Ủy ban hành chính hoặc thủ
trưởng đơn vị đối với tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. Trường hợp
phát hiện người được bầu không đủ tiêu chuẩn quy định, thì Ủy ban hành chính hoặc
thủ trưởng đơn vị phải báo cáo với Đảng ủy, đoàn thể ở cơ sở, cơ quan thanh tra
chuyên trách cấp trên để nhất trí cách giải quyết.
Thành viên Ban thanh tra nhân dân
trong khi hoạt động, nếu có khuyết điểm sẽ bị xử lý theo chế độ chung như điều
7 của quyết định và cần bàn bạc nhất trí với Ban thanh tra nhân dân. Nếu mắc
khuyết điểm nghiêm trọng, không đủ tiêu chuẩn quy định thì phải xin ý kiến của
thủ trưởng đơn vị và cơ quan thanh tra chuyên trách cấp trên, sau đó họp toàn
Ban thanh tra nhân dân thảo luận và biểu quyết theo đa số tuyệt đối xóa tên
trong Ban và báo cáo thủ trưởng đơn vị thu hồi quyết định công nhận, báo cáo lại
với đại hội (hoặc đại biểu đại hội) trong kỳ họp tới.
3. Mạng lưới thanh tra viên nhân
dân:
Ban thanh tra nhân dân được tổ chức
các tổ, nhóm thanh tra viên nhân dân ở các bộ phận và các khâu sản xuất, công
tác của đơn vị, hình thành một mạng lưới thanh tra viên nhân dân rộng rãi, giúp
cho Ban thanh tra nhân dân thực hiện được sự có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, kịp thời
nắm được mọi tình hình xảy ra, duy trì và tăng cường được mối liên hệ mật thiết
với quần chúng nhân dân, làm cho công tác thanh tra thực sự là của mọi người
trong đơn vị, được mọi người ủng hộ.
Căn cứ vào tầm quan trọng và yêu cầu
của công tác quản lý đối với từng khâu, từng bộ phận ở đơn vị cơ sở. Ban thanh
tra nhân dân đề nghị quần chúng nhân dân nơi đó lựa chọn thanh tra viên nhân
dân theo tỷ lệ từ 10 đến 20 người có một thanh tra viên nhân dân ở các cơ sở
kinh tế, sự nghiệp và từ 10 đến 20 hộ ở các cơ sở chính quyền, sau đó Ban thanh
tra nhân dân công nhận. Thanh tra viên nhân dân thường xuyên phản ánh tình hình
của nơi mình làm việc cho Ban thanh tra nhân dân, trực tiếp góp ý với mọi người
xung quanh về những hiện tượng sai trái xảy ra; đồng thời tham gia điều tra,
xác minh, nghiên cứu từng vấn đề theo sự phân công và chỉ đạo của Ban thanh tra
nhân dân.
VI. TIÊU CHUẨN
THÀNH VIÊN BAN THANH TRA NHÂN DÂN
Năm tiêu chuẩn đề ra trong quyết định
vừa là điều kiện để bầu, vừa là tiêu chuẩn phấn đấu của mỗi thành viên Ban
thanh tra nhân dân. Năm tiêu chuẩn đó quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời có
yêu cầu riêng của mỗi tiêu chuẩn.
Người được bầu trước hết phải là
người gương mẫu tham gia lao động sản xuất, công tác, nghiêm chỉnh chấp hành
các chính sách, luật pháp của Nhà nước, nội quy của đơn vị. Có các điều kiện
trên mới có cơ sở để nhận xét, đánh giá việc xảy ra trong đơn vị một cách khách
quan, trung thực. Đương nhiên nếu là người lao động gương mẫu, chấp hành tốt
chính sách, luật pháp tất được quần chúng tín nhiệm, nhưng việc tín nhiệm đó
cũng sẽ được thử thách, phát triển trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Công tác
thanh tra nhân dân có khó khăn, phức tạp và là một hoạt động vì lợi ích xã hội,
nên cần chú ý đầy đủ đến điều kiện tự nguyện của người được cử tham gia.
Khi vận dụng năm tiêu chuẩn trên,
không nên cầu toàn, tránh thành kiến với các khuyết điểm cũ đã sửa chữa và cần
chú ý đến sự tiến bộ hiện nay.
VII. QUAN HỆ VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN ĐOÀN THỂ VÀ CƠ QUAN THANH TRA
CHUYÊN TRÁCH VỚI BAN THANH TRA NHÂN DÂN
Nghị quyết số 19-CP của Hội đồng
Chính phủ về cải tiến quản lý đã nhấn mạnh “ các cơ quan có thẩm quyền từ Thường
vụ Hội đồng Chính phủ đến các Bộ, các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố phải
luôn luôn sẵn sàng, khẩn trương xem xét và quyết định nhanh chóng về các kiến
nghị của cơ quan thanh tra”. Điều đó xác định rõ trách nhiệm của mỗi ngành, mỗi
cấp, mỗi cán bộ lãnh đạo đối với công tác thanh tra. Ban thanh tra nhân dân là
một tổ chức mới, hoạt động của nó có nhiều mặt phong phú, phức tạp, muốn có kết
quả càng cần được sự quan tâm lãnh đạo của tổ chức Đảng, sự chỉ đạo của chính
quyền và sự phối hợp của các đoàn thể nhân dân.
1. Với Đảng Ủy cơ sở:
Tổ chức Ban thanh tra nhân dân ở
đơn vị cơ sở là phù hợp với nghị quyết của Đảng xác định Đảng lãnh đạo, nhân
dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Do đó coi trọng sự lãnh đạo của Đảng ủy cơ sở đối
với công tác thanh tra nhân dân là một trong các yếu tố quyết định cho sự hoạt
động có kết quả của Ban thanh tra nhân dân.
Ban thanh tra nhân dân yêu cầu Đảng
ủy chú trọng lãnh đạo mình với nội dung như sau:
a) Lãnh đạo về tư tưởng và tổ chức,
bảo đảm cho Ban thanh tra nhân dân hoạt động đúng với chức năng nhiệm vụ đã được
quy định.
b) Giáo dục, khuyến khích đảng viên
và mọi người trong đơn vị tham gia hoạt động thanh tra và thực hiện đúng đắn
các kết luận, kiến nghị của thanh tra nhân dân;
c) Đề xuất với thủ trưởng đơn vị về
phương hướng hoạt động thanh tra, khi nhận thấy có trở ngại cho công tác thanh
tra thì trực tiếp làm việc với thủ trưởng để giải quyết hoặc báo cáo lên cấp
trên nếu thấy cần thiết;
d) Trực tiếp xét giải quyết những vấn
đề của Ban thanh tra nhân dân nêu liên quan đến đảng viên và thuộc trách nhiệm
và thẩm quyền của Đảng ủy cơ sở.
Ban thanh tra nhân dân phải phản
ánh trung thực nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân đối với Đảng ủy,
góp phần xây dựng Đảng và đề nghị giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của
Đảng ủy cơ sở.
2. Thủ trưởng đơn vị:
Công tác thanh tra nhân dân có tác
dụng thiết thực góp phần tăng cường quản lý đơn vị, đẩy mạnh tăng năng suất lao
động, thúc đẩy hoàn thành kế hoạch của đơn vị; Thủ trưởng đơn vị cơ sở vừa chịu
sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân, vừa có trách nhiệm tổ chức và chỉ
đạo Ban thanh tra nhân dân.
a) Thủ trưởng đơn vị phải tự mình
nghiên cứu quán triệt và tổ chức cho mọi người nắm được nội dung quyết định số
25-TTg và thông tư hướng dẫn của Ủy ban thanh tra của Chính phủ
b) Căn cứ vào sự hướng dẫn của cơ
quan thanh tra chuyên trách cấp trên, bàn bạc thống nhất với Đảng ủy, đoàn thể
trong đơn vị, để tổ chức Ban thanh tra nhân dân trong đơn vị mình.
c) Định kỳ chỉ đạo hoạt động của
Ban thanh tra nhân dân về các mặt:
- Đề xuất phương hướng, nội dung hoạt
động, các vấn đề cần thanh tra, các vấn đề khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, thỉnh
cầu cần giải quyết.
- Nghe báo cáo hoạt động, phản ánh
tình hình, kiến nghị của Ban;
- Đề ra các biện pháp cụ thể nhằm
thực hiện những kết luận, kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân, kiểm tra việc
chấp hành của các bộ phận thuộc quyền;
d) Tạo điều kiện cho Ban thanh tra
nhân dân hoạt động:
- Dành một số thời gian cho Ban
thanh tra nhân dân làm công tác thanh tra mà vẫn hưởng các tiêu chuẩn, chế độ
như người khác.
- Cung cấp các phương tiện, điều kiện
làm việc như: phương tiện thông tin, tuyên truyền, giấy tờ sổ sách, chỗ làm việc,
giúp đỡ việc đi lại…;
- Trực tiếp trả lời hoặc chỉ thị
cho các bộ phận thuộc quyền trả lời, cung cấp tài liệu, tình hình theo như quyền
hạn quy định cho Ban thanh tra nhân dân;
- Phổ biến kịp thời và rộng rãi các
chính sách chế độ của Đảng, Chính phủ và của ngành cho Ban thanh tra nhân dân
và mọi người trong đơn vị hiểu rõ và có điều kiện kiểm tra, giám sát việc thực
hiện.
e) Bảo vệ các thành viên Ban thanh
tra nhân dân để khỏi bị ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh thần và vật chất vì các
hoạt động công ích của họ.
Các Ban thanh tra nhân dân phải
tranh thủ sự chỉ đạo của thủ trưởng đơn vị, phản ánh tình hình thuộc trách nhiệm
quản lý của thủ trưởng, hỗ trợ cho những việc làm đúng đắn của đơn vị, đồng thời
tích cực thúc đẩy đơn vị giải quyết tốt những kết luận, kiến nghị của Ban thanh
tra nhân dân, xây dựng sự đoàn kết nhất trí với nhau trong khi thực hiện nhiệm
vụ.
3. Các Bộ, Tổng cục và các Ủy
ban hành chính tỉnh, thành:
Để thực hiện tốt quyết định số
25-TTg, các ngành, các cấp cần thực hiện ngay một số việc sau:
- Phổ biến rộng rãi quyết định của
Thủ tướng chính phủ, thông tư hướng dẫn của Ủy ban thanh tra của Chính phủ
trong ngành hoặc địa phương mình.
- Kiện toàn các cơ quan thanh tra
chuyên trách để có đủ năng lực hướng dẫn các Ban thanh tra nhân dân. Nơi nào
chưa có cơ quan thanh tra chuyên trách cấp trên trực tiếp thì chưa nên tổ chức
thanh tra nhân dân ở đơn vị cơ sở.
- Có kế hoạch chỉ đạo chặt chẽ
trong ngành, trong địa phương tổ chức các Ban thanh tra nhân dân từ điểm đến diện.
Trước hết, tổ chức ở các đơn vị cơ sở như quy định trong mục II của thông tư,
trọng điểm là những nơi đang tiến hành cải tiến quản lý, tổ chức lại sản xuất
theo các nghị quyết số 19-CP và 61-CP, lấy nội dung kiểm tra việc thực hiện các
nghị quyết nói trên để thúc đẩy sự hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân.
- Tổ chức việc sơ kết, rút kinh
nghiệm về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhân dân, từng bước xây dựng, quy
định cụ thể về tổ chức và hoạt động cho từng loại Ban thanh tra nhân dân ở đơn
vị cơ sở thuộc ngành hoặc địa phương của mình.
4. Với Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân:
Các đoàn thể ở cơ sở trong hoạt động
của mình có vai trò kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy Nhà nước. Việc
tổ chức Ban thanh tra nhân dân không làm hạn chế hoặc dẫm đạp lên chức năng kiểm
tra, giám sát của từng đoàn thể, ngược lại nếu phối hợp tốt sẽ càng làm tăng
vai trò kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân nói chung và của từng đoàn
thể nói riêng.
Thủ trưởng đơn vị cơ sở cần bàn bạc
với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong đơn vị chú ý giúp đỡ Ban thanh tra
nhân dân hoạt động qua việc:
- Cử người có uy tín và năng lực của
đoàn thể mình tham gia Ban thanh tra nhân dân;
- Đề xuất ý kiến với Ban thanh tra
nhân dân cùng phối hợp các hoạt động thanh tra;
- Động viên đoàn viên của mình tích
cực thực hiện các kết luận, kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân;
- Giải quyết những vấn đề do Ban
thanh tra nhân dân đề xuất thuộc trách nhiệm của đoàn thể mình.
Ban thanh tra nhân dân phải giữ mối
quan hệ chặt chẽ với Mặt trận và các đoàn thể trong đơn vị, chủ động đề xuất những
vấn đề cần phối hợp hoạt động, phản ánh những vấn đề liên quan đến Mặt trận và
đoàn thể để đề nghị giải quyết, ủng hộ các hoạt động kiểm tra, giám sát của Mặt
trận và đoàn thể. Ở các cơ sở kinh tế, sự nghiệp, có những vấn đề thuộc trách
nhiệm và thẩm quyền của công đoàn như quy định trong Luật công đoàn thì Ban
thanh tra nhân dân phải phản ánh kịp thời với công đoàn để giải quyết.
Ủy ban thanh tra của Chính phủ sẽ đề
nghị với các cơ quan trung ương của Mặt trận và các đoàn thể bàn bạc để có những
quy định thích hợp giúp cho các tổ chức thanh tra nhân dân, Mặt trận và đoàn thể
nhân dân ở đơn vị cơ sở thực hiện tốt chức năng của mình, phát huy được tốt vai
trò làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân.
5. Với các cơ quan thông tin,
báo chí:
Ủy ban thanh tra của Chính phủ đã
có đề nghị với các cơ quan thông tin báo chí có kế hoạch tuyên truyền rộng khắp
quyết định của Thủ tướng Chính phủ làm cho mọi người có nhận thức và thái độ
đúng về công tác thanh tra nhân dân, thường xuyên giới thiệu tổ chức, kết quả
và kinh nghiệm hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân, phản ánh dư luận quần
chúng hoan nghênh ủng hộ các hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
Ủy ban thanh tra của Chính phủ, các
cơ quan thanh tra chuyên trách ở ngành, và địa phương sẽ cùng với cơ quan thông
tin báo chí ở trung ương và địa phương bàn bạc, quy định cụ thể nội dung mối
quan hệ giữa hai bên nhằm giới thiệu đầy đủ và thúc đẩy sự hoạt động của thanh
tra nhân dân.
6. Các cơ quan thanh tra chuyên
trách:
Ban thanh tra nhân dân là tổ chức
cơ sở trong hệ thống các tổ chức và lực lượng thanh tra, việc hướng dẫn thực hiện
toàn bộ quyết định số 25-TTg cũng là trách nhiệm của các cơ quan thanh tra
chuyên trách.
a) Các Ban thanh tra Bộ, Tổng cục, Ủy
ban thanh tra tỉnh, thành cần chủ động đề ra kế hoạch cụ thể, giúp cho lãnh đạo
ngành và địa phương chỉ đạo tốt việc thực hiện quyết định, đồng thời trực tiếp
hướng dẫn các tổ chức thanh tra thuộc quyền quán triệt và thực hiện. Ban thanh
tra Bộ, Tổng cục, Ủy ban thanh tra tỉnh, thành chỉ đạo việc tổ chức bồi dưỡng
nghiệp vụ, cho các Ban thanh tra nhân dân qua các cuộc hội nghị tổng kết, rút
kinh nghiệp hoặc qua các lớp tập huấn ngắn ngày.
b) Cơ quan thanh tra chuyên trách cấp
trên trực tiếp có trách nhiệm hướng dẫn công tác, nghiệp vụ cho các Ban thanh
tra nhân dân, cụ thể là:
- Các Ủy ban thanh tra huyện, khu
phố, thị xã hướng dẫn công tác, nghiệp vụ cho các Ban thanh tra nhân dân xã, tiểu
khu, thị trấn, các Ban thanh tra nhân dân của các đơn vị cơ sở kinh tế, sự nghiệp
trực thuộc sự quản lý của huyện, khu phố, thị xã.
- Các ban thanh tra của sở, ty,
công ty hướng dẫn công tác nghiệp vụ cho các Ban thanh tra nhân dân của các đơn
vị cơ sở kinh tế, sự nghiệp trực thuộc sự quản lý của sở, ty, công ty.
- Các Ban thanh tra của Bộ, Tổng cục
hướng dẫn công tác nghiệp vụ cho các Ban thanh tra nhân dân của các đơn vị cơ sở
kinh tế, sự nghiệp trực thuộc sự quản lý của ngành.
- Trường hợp chưa có cơ quan thanh
tra chuyên trách cấp trên trực tiếp thì cơ quan thanh tra chuyên trách trên 1 cấp
chịu trách nhiệm hướng dẫn công tác, nghiệp vụ cho các Ban thanh tra nhân dân.
- Ban thanh tra ở các ngành, Ủy ban
thanh tra ở các cấp, tùy theo trách nhiệm được giao ở trên, phải chú ý bàn bạc,
trao đổi để phối hợp giúp đỡ nhau trong việc tổ chức và hướng dẫn hoạt động cho
các Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở.
c) Nội dung hướng dẫn bao gồm các vấn
đề sau:
- Có kế hoạch bàn bạc và hướng dẫn
cho thủ trưởng đơn vị cơ sở đứng ra tổ chức Ban thanh tra nhân dân.
- Hướng dẫn Ban thanh tra nhân dân
về cách xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra từng thời kỳ, xác định đề
tài, yêu cầu, nội dung thanh tra. Hướng dẫn về phương pháp công tác và lề lối
làm việc của Ban thanh tra nhân dân.
- Yêu cầu lãnh đạo đơn vị cơ sở hoặc
cấp trên giải quyết những kiến nghị đúng đắn của thanh tra nhân dân làm đúng chức
năng của mình.
Trên đây, Ủy ban thanh tra của
Chính phủ hướng dẫn một số điểm để các ngành, các địa phương bước đầu tổ chức
và hướng dẫn hoạt động cho các Ban thanh tra nhân dân.
Đề nghị Mặt trận và các đoàn thể
thường xuyên trao đổi với Ủy ban thanh tra của Chính phủ về việc hướng dẫn và
chỉ đạo thực hiện quyết định số 25-TTg.
Trong quá trình thực hiện các
ngành, các địa phương phản ánh cho Ủy ban thanh tra của Chính phủ biết ý kiến để
nghiên cứu, quy định tiếp theo.
|
CHỦ
NHIỆM
ỦY BAN THANH TRA CỦA CHÍNH PHỦ
Nguyễn Văn Lộc
|