ỦY
BAN NÔNG NGHIỆP
TRUNG ƯƠNG
*****
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******
|
Số:
17-NN/KTTV/TT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 10 năm 1973
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 186-TTg NGÀY 02-7-1971 CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CÁCH XỬ LÝ VÀ HẠCH TOÁN ĐỐI VỚI MỘT SỐ KHOẢN CHI PHÍ
LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ THÀNH VÀ PHÍ LƯU THÔNG.
Ngày 02 tháng 7 năm 1971, Thủ tướng
Chính phủ đã ra thông tư số 186-TTg quy định cách xử lý và hạch toán đối với một
số khoản chi phí liên quan đến giá thành và phí lưu thông thay thế các thông tư
số 115-TTg và 75-TTg ban hành năm 1963, 1964.
Thông tư này hướng dẫn cách giải
quyết đối với thiệt hại do thiên tai, hỏa hoạn thay cho Thông tư số 28-TT/KV
ngày 18-4-1966 của Bộ Nông trường.
I. NẮM VỮNG QUY
LUẬT THỜI TIẾT, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC PHÒNG TRÁNH THIÊN TAI, TRIỆT ĐỂ PHÒNG
TRÁNH HỎA HOẠN
Thiên tai như hạn, lụt, úng, gió
bão, sương muối đều xảy ra theo quy luật thời tiết nhất định, ở những vùng nhất
định. Qua kinh nghiệm sản xuất của tổ tiên ta cũng như qua kinh nghiệm sản xuất
của bản thân các xí nghiệp, trong nhiều năm, chúng ta có thể biết tương đối
chính xác ở vùng đất nào và trong lúc nào thường xảy ra thiên tai, do đó, chúng
ta có thể có biện pháp để ngăn ngừa thiên tai như chống hạn, chống úng bằng các
công trình thủy lợi, bằng rừng chắn gió, v.v…. hoặc nếu chưa có điều kiện để
ngăn ngừa thiên tai thì phải phòng tránh thiên tai bằng cách thay đổi mùa vụ,
thay đổi loại cây trồng, v.v….
Còn sản xuất nhỏ thì làm ăn nhờ trời,
bấp bênh, thiệt hại xảy ra còn ít, nhưng càng tiến lên sản xuất lớn mà vẫn sản
xuất bấp bênh, không chủ động đối với khí hậu thời tiết và đất đai thì thiệt hại
sẽ rất to lớn.
Vì vậy, các xí nghiệp trong ngành,
phải nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, nắm vững quy luật của khí hậu, thời
tiết, chủ động và tích cực phòng tránh thiên tai để hạn chế đến mức thấp nhất
thiệt hại do thiên tai. Phương hướng sản xuất của xí nghiệp, kế hoạch dài hạn
cũng như kế hoạch hàng năm đều phải thể hiện tinh thần đó.
Từ nay trở đi, đối với những diễn
biến của thời tiết đã thành quy luật thì phải chủ động phòng và tránh. Quy
trình kỹ thuật phải đề cập đến các vấn đề phòng tránh đó và chi phí cần thiết để
phòng tránh, theo quy trình, sẽ chi và hạch toán vào các khoản vốn thích hợp (vốn
kiến thiết cơ bản, kinh phí chuyên dùng hay tính vào giá thành sản phẩm).
Chi những trường hợp đột xuất, thời
tiết thay đổi không theo quy luật nào hoặc xảy ra dịch bệnh cho cây trồng và
gia súc mà ta chưa có phương pháp phòng và trị thì thiệt hại xảy ra mới được
xem là thiệt hại do thiên tai.
Cũng với tinh thần trên, xí nghiệp
phải có các biện pháp đầy đủ để phòng hỏa hoạn. Phải có nội quy cụ thể phòng hỏa
hoạn ở nơi làm việc, nơi sinh hoạt, giáo dục và đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ việc
thi hành nội quy, nghiêm khắc thi hành kỷ luật đối với những người vi phạm nội
quy phòng hỏa của xí nghiệp. Nếu không có nội quy phòng hỏa thì giám đốc xí
nghiệp phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra. Nếu đã có nội quy rồi, đã phổ
biến và giáo dục đầy đủ rồi mà chấp hành không nghiêm túc thì thủ trưởng bộ phận
phải chịu trách nhiệm và khi xảy ra thiệt hại phải liên đới chịu trách nhiệm với
người gây ra thiệt hại.
II. XÁC ĐỊNH THIỆT
HẠI VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT
Thông tư số 186-TTg Thủ tướng Chính
phủ quy định: “Hiện nay ở nước ta, chưa thành lập quỹ bảo hiểm sản xuất cho nên
tạm thời hạch toán các thiệt hại vào lỗ lãi của xí nghiệp.
Thiệt hại xảy ra trong trường hợp
xí nghiệp đã tích cực đề phòng, ngăn ngừa, sẽ được châm chước khi xét hoàn
thành kế hoạch lãi”.
Quy định mới này phù hợp với tinh
thần chủ động và tích cực để phòng, ngăn ngừa thiệt hại do thiên tai hỏa hoạn,
như đã nói trên. Nếu xí nghiệp để xảy ra thiệt hại thì xí nghiệp phải chịu
trách nhiệm và thiệt hại đó hạch toán vào lỗ của xí nghiệp.
Tuy nhiên cũng cần phân biệt các loại
thiệt hại để xử lý cho đúng.
Thiệt hại do thiên tai, hỏa hoạn có
thể xảy ra cho công trình xây dựng cơ bản, cho tài sản cố định, cho tài sản lưu
động của xí nghiệp hoặc làm ngừng trệ công tác của công nhân.
1. Đối với công
trình xây dựng cơ bản:
a) Trường hợp công trình xây dựng
cơ bản bị thiệt hại có thể phục hồi: số thiệt hại là số chi phí để phục hồi lại
công trình co bằng tình trạng trước lúc xảy ra thiệt hại.
Trong trường hợp này, xí nghiệp phải
lập dự toán xin bổ sung vốn kiến thiết cơ bản để phục hồi công trình. Khi lập dự
toán xin kinh phí phục hồi, phải tính toán phần thu hồi được để trừ bớt đi.
b) Trường hợp bị thiệt hại hoàn
toàn không thể phục hồi được nữa, phải thanh lý: số thiệt hại là toàn bộ số vốn
đã đầu tư vào công trình đến ngày xảy ra thiệt hại, cộng với chi phí thanh lý,
trừ đi giá trị vật liệu thu hồi được (nếu có).
Sau khi cấp trên duyệt y cho thanh
lý, số thiệt hại được quyết toán với nguồn vốn cấp phát.
c) Đối với công trình xây dựng cơ bản
bằng vốn tự có của xí nghiệp (quỹ xí nghiệp, quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc
lợi) thì chi phí phục hồi, chi phí thanh lý đều chi bằng quỹ tự có của xí nghiệp.
Trường hợp quỹ của xí nghiệp không đủ để phục hồi thì vay vốn ngân hàng (nếu có
điều kiện trả nợ cho ngân hàng trong thời gian quy định) hoặc xin ngân sách cấp
bổ sung vốn kiến thiết cơ bản (nếu công trình không thuộc đối tượng cho vay của
ngân hàng).
d) Đối với công trình xây dựng cơ bản
bằng vốn vay ngân hàng thì chi phí phục hồi được giải quyết bằng vốn vay thêm của
ngân hàng theo sự thỏa thuận mới giữa ngân hàng và xí nghiệp.
2. Đối với tài
sản cố định:
a) Trường hợp tài sản cố định bị hư
hỏng, có thể sửa chữa được: số thiệt hại là chi phí để sửa chữa tài sản cố định
đó.
- Trường hợp tài sản cố định bị hư
hỏng nhẹ thì hạch toán chi phí sửa chữa vào sửa chữa thường xuyên và
tính vào giá thành hoặc phí lưu thông.
- Trường hợp tài sản cố định bị hư
hỏng nặng phải trung tu, đại tu thì chi bằng nguồn vốn sửa chữa lớn. Nếu vốn sửa
chữa lớn không đủ thì vay thêm ngân hàng về sửa chữa lớn (theo chế độ hiện
hành).
b) Trường hợp tài sản cố định bị hư
hỏng hoàn toàn thì thiệt hại là giá trị còn lại của tài sản cố định theo sổ
sách, cộng với chi phí thanh lý (nếu có) trừ đi giá trị vật liệu có thể thu hồi
được.
Tài sản cố định bị thiệt hại được xử
lý và hạch toán theo chế độ thanh lý tài sản cố định hiện hành.
3. Đối với tài
sản lưu động:
a) Cây trồng: nếu vì thiên
tai mà mất trắng thì toàn bộ chi phí đã bỏ ra đều được tính là thiệt hại.
Nếu bị thiệt hại nhưng vẫn còn sản
phẩm thu hoạch thì tất cả chi phí phải đầu tư thêm ngoài quy trình kỹ thuật để
gieo trồng, chăm sóc đều tính là thiệt hại. Phần chi phí còn lại, tính vào giá
thành sản phẩm.
b) Gia súc: số thiệt hại là
giá trị của gia súc đến ngày xảy ra thiệt hại, trừ phần có thể thu hồi lại được.
c) Vật tư, sản phẩm: Nếu bị
mất hoặc hư hỏng hoàn toàn, số thiệt hại là giá trị vật tư sản phẩm tính theo
giá thành thực tế.
Nếu bị kém phẩm chất thì thiệt hại
là số chênh lệch giữa giá thành thực tế và tiền thu về vật tư sản phẩm có thể
tiêu thụ được.
d) Vật rẻ tiền mau hỏng: thiệt
hại là giá trị còn lại của vật rẻ tiền mau hỏng theo sổ sách.
4. Thiệt hại về
ngừng sản xuất:
Tiền lương phải trả cho công nhân
phải ngừng sản xuất do thiên tai, hoặc phải trả cho công nhân làm các công việc
để thanh toán hậu quả của thiên tai như thu dọn nhà cửa, khai thông đường sá,
v.v…. đều tính vào thiệt hại do thiên tai.
Các khoản thiệt hại nói ở điểm a,
b, c, d và thiệt hại về ngừng sản xuất nói ở mục 4 trên đây đều hạch toán vào lỗ.
Đối với thiệt hại do hỏa hoạn phải
giải quyết theo chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức ban hành
theo nghị định số 49-CP ngày 09-4-1968 của Hội đồng Chính phủ.
Số tiền phải bồi thường hạch toán
vào tài khoản Thanh toán các khoản bồi thường vật chất. Số thiệt hại
không bồi thường được hoặc không có người bồi thường hạch toán vào lỗ.
Sau khi biên bản xác nhận thiệt hại
do thiên tai hỏa hoạn được cơ quan chủ quản xét duyệt, số thiệt hại về vốn lưu
động sẽ được giảm vốn hoặc được trừ vào lãi nộp cấp trên (đối với xí nghiệp có
kế hoạch lãi) hoặc được cấp trên cấp bù lỗ (đối với xí nghiệp có kế hoạch lỗ)
theo quyết toán quý, năm gần nhất.
Trong khi chờ đợi cấp trên cấp bù lỗ,
nếu xí nghiệp thiếu vốn để giải quyết hậu quả của thiên tai, hỏa hoạn, nhanh
chóng phục hồi sản xuất, thì được vay ngắn hạn của ngân hàng.
Khoản vay này coi như là vay nhu cầu
tạm thời, ngoài kế hoạch tín dụng đã được xác định, cần được theo dõi riêng. Thời
gian trả nợ không quá 3 tháng. Nguồn trả nợ là khoản cấp bù lỗ về thiên tai hoặc
trích một phần tiền lãi thực hiện hàng quý. Trường hợp khoản tiền cấp bù lỗ hoặc
khoản lãi trích thấp hơn số tiền vay ngân hàng để phục hồi sản xuất thì phần nợ
chưa trả hết được chuyển thành nợ vay trong kế hoạch và trong doanh số vay vốn
của kế hoạch quý, phải trừ giảm một khoản tiền bằng số nợ chưa trả hết.
Khoản vay này nhằm đáp ứng yêu cầu
vốn cần thiết để phục hồi sản xuất, sau khi bị thiên tai, chứ không phải để bù
đắp giá trị tổn thất do thiên tai gây ra.
Đối với khối lượng công việc đã
hoàn thành hoặc sản phẩm đã sản xuất ra bị thiệt hại do thiên tai, vẫn được
tính là khối lượng hoàn thành để tính chi trả lương khi xí nghiệp xin rút tiền
lương về chi cho công nhân, viên chức.
III. THỦ TỤC XỬ
LÝ
Thông tư số 186-TTg đã quy định là:
“Ngay sau khi gặp thiên tai, hỏa hoạn,
xí nghiệp phải chủ động mời một hội đồng, thành phần gồm:
- Đại diện của Ủy ban hành chính từ
cấp huyện trở lên,
- Đại diện cơ quan tài chính từ cấp
huyện trở lên,
- Đại diện cơ quan công an từ cấp
huyện trở lên,
- Đại diện ban giám đốc xí nghiệp
và ban chấp hành công đoàn xí nghiệp (nếu là công trường kiến thiết cơ bản đại
diện cả bên A và bên B).
Hội đồng này có nhiệm vụ:
- Kiểm kê và trị giá số thiệt hại;
- Tính số chi phí để thanh toán hậu
quả của thiên tai, hỏa hoạn;
- Nêu nguyên nhân, quy trách nhiệm;
- Lập biên bản gửi Bộ Tài chính và
bộ chủ quản xí nghiệp (đối với xí nghiệp địa phương thì gửi Ty tài chính, Ty chủ
quản xí nghiệp và Ủy ban hành chỉnh tỉnh, thành phố) để làm căn cứ xử lý.
Trường hợp thiệt hại ít, theo quy định
của bộ chủ quản xí nghiệp (đối với xí nghiệp trung ương) hoặc Ủy ban hành chính
tỉnh, thành phố (đối với xí nghiệp địa phương), ban giám đốc xí nghiệp và ban
chấp hành công đoàn xí nghiệp có trách nhiệm làm các việc nói trên không phải mời
hội đồng”.
Căn cứ vào những điểm trên đây, Ủy
ban Nông nghiệp trung ương quy định cụ thể như sau:
1. Trường hợp
phải mời hội đồng và thành phần hội đồng:
Xí nghiệp phải mời hội đồng trong
trường hợp thiệt hại nghiêm trọng, làm đảo lộn cả kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài
chính của xí nghiệp, phải thay đổi, điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất, kế hoạch
tài chính, kế hoạch xây dựng cơ bản, hoặc trong trường hợp số thiệt hại về tài
sản lớn (từ 10.000đ trở lên đối với xí nghiệp địa phương, 15.000đ trở lên đối với
xí nghiệp trung ương).
Thành phần hội đồng:
a) Đối với xí nghiệp quốc doanh trực
thuộc huyện, hội đồng gồm đại diện Ủy ban hành chính huyện hoặc đại diện Ủy ban
nông nghiệp huyện nếu được Ủy ban hành chính huyện ủy quyền, cơ quan tài chính,
cơ quan ngân hàng huyện.
b) Đối với xí nghiệp trực thuộc tỉnh,
thành phố, hội đồng gồm đại diện Ủy ban hành chính tỉnh hoặc đại diện Ủy ban
nông nghiệp tỉnh, thành phố nếu được Ủy ban hành chính tỉnh thành phố ủy quyền,
cơ quan tài chính, cơ quan ngân hàng nơi xí nghiệp có tài khoản.
c) Đối với xí nghiệp trực thuộc Ủy
ban Nông nghiệp trung ương, hội đồng gồm đại diện của cơ quan quản lý cấp trên
của xí nghiệp, (cục, ban, viện trực tiếp quản lý, và khi cần có thể có cả đại
diện của Vụ kinh tế kế hoạch, Vụ kế toán tài vụ), đại diện của Ty tài chính thuộc
địa phương mà xí nghiệp của trung ương hiện đóng, đại diện cơ quan ngân hàng
nơi xí nghiệp mở tài khoản.
d) Trong tất cả các trường hợp
thiệt hại đến công trình xây dựng cơ bản, đều phải mời đại diện của ngân hàng
kiến thiết có trách nhiệm cấp phát và quản lý công trình (đối với công trình do
Nhà nước cấp phát) hay đại diện cơ quan ngân hàng Nhà nước (đối với công trình
dùng vốn vay của ngân hàng Nhà nước).
e) Trong tất cả các trường hợp hỏa
hoạn có nghi vấn về nguyên nhân thì phải mời đại diện của cơ quan công an.
g) Trong tất cả mọi trường hợp đều
có đại diện của ban giám đốc và ban chấp hành công đoàn xí nghiệp.
Khi xét phải mời hội đồng xí nghiệp
phải dùng phương tiện nhanh nhất để triệu tập và quy định giờ ngày họp.
Đối với hỏa hoạn, hội đồng phải bắt
đầu làm việc trong vòng 24 giờ ngay sau khi hỏa hoạn.
Đối với thiên tai, hội đồng phải bắt
đầu làm việc trong vòng 5 ngày, sau khi xảy ra thiên tai.
Hội đồng phải đến tận nơi, để xem
xét tại chỗ và lập biên bản theo quy định trong thông tư số 186-TTg. Nếu đến
ngày quy định mà có đại biểu vắng mặt thì hội đồng vẫn làm việc và trong biên bản,
ghi rõ đại biểu vắng mặt.
Xí nghiệp huy động các cơ quan
chuyên môn, nghiệp vụ của mình để giúp hội đồng làm các công việc kiểm kê, trị
giá thiệt hại, tính chi phí thanh toán hậu quả của thiên tai, hỏa hoạn, xác định
nguyên nhân, quy trách nhiệm v.v.
Trong khi chờ đợi hội đồng họp, xí
nghiệp vẫn có thể tiến hành các công việc cần thiết để bảo vệ tài sản, phục hồi
sản xuất, phục hồi sinh hoạt (trừ trường hợp phải giữ nguyên hiện trường về hỏa
hoạn để điều tra tìm nguyên nhân hoặc thủ phạm) xí nghiệp cần tổ chức theo dõi,
ghi chép các công việc đã làm để báo cáo lại với hội đồng.
2. Trường hợp
không phải mời hội đồng:
Ngoài những trường hợp quy định
trên đây thì ban giám đốc xí nghiệp và ban chấp hành công đoàn lập biên bản,
nhưng cũng phải đảm bảo nội dung yêu cầu về nhiệm vụ của hội đồng.
IV. ĐIỀU KIỆN
THI HÀNH
Thông tư này thi hành kể từ ngày 01
tháng 01 năm 1974.
Kèm theo thông tư này là mẫu biên bản
xác định thiệt hại do thiên tai, hỏa hoạn([*])
|
K.T.
CHỦ NHIỆM ỦY BAN
NÔNG NGHIỆP T.U.
ỦY VIÊN
Nguyễn Xuân Lâm
|
[*]
Không in mẫu biên bản