Thông tư 141-HCTP năm 1957 về tổ chức và phân công nội bộ của tòa án do Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 141-HCTP
Ngày ban hành 05/12/1957
Ngày có hiệu lực 20/12/1957
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Vũ Đình Hoè
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng

BỘ TƯ PHÁP
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 141-HCTP

Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 1957 

 

THÔNG TƯ

VỀ TỔ CHỨC VÀ PHÂN CÔNG NỘI BỘ CỦA TÒA ÁN

BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP

Kính gửi: Các Ủy ban hành chính và các Toà án nhân dân khu, tỉnh và thành phố

Trong thời gian qua, tòa án vì thiếu biên chế hoặc cán bộ mặc bận đi công tác khác do đó có khi một thẩm phán kiêm luôn nhiệm vụ của hai ông công tố ủy viên và chánh án hoặc công tố ủy viên kiêm nhiệm vụ của chánh án hay ngược lại. Ranh giới giữa bộ phận xử án và công tố viên không được rành rẽ  và tổ chức nội bộ của tòa án mỗi nơi khác.

Tình trạng ấy đã hạn chế rất nhiều kết qủa công tác của tòa án.

Hội nghị của Bộ Tư pháp lần thứ 10 năm 1957 cũng đã thông qua đề án về tổ chức tòa án. Căn cứ vào kinh nghiệm làm việc trong ngành, Bộ đề ra một số điểm sau đây về tổ chức và sự phân công phân nhiệm trong tòa án.

I. VỀ TỔ CHỨC.

Tòa án nhân dân gồm có: chánh án, công tố, ủy viên, có thể có phó chánh án, phó công tác ủy viên và thẩm phán ở những nơi nhiều việc.

Hai ông chánh án, công tố ủy viên có nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt đều là thủ trưởng cơ quan.

II. NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CÁC VỊ THẨM PHÁN

1. Ông công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp, có nhiệm vụ:

a) Điều tra, thẩm cứu các việc hình sự (chính trị và hình sự thường): tiến hành điều tra, phối hợp điều tra với công an, ra lệnh bắt kẻ phạm pháp, thẩm tra lại hồ sơ, đinh cứu, miễn tố, và làm nhiệm vụ công tố của Nhà nước trước tòa án đối với các việc hình sự, khởi tố làm cáo trạng luận tội trước phiên tòa xử án.

b) Theo dõi những hoạt động của các cơ quan điều tra có hợp pháp không: như việc bắt tha có đúng không, có dùng nhục hình trong việc điều tra không..

c) Theo dõi việc xét xử và hòa giải tòa án nhân dân có hợp pháp không (kháng nghị đối với các bản án hoặc nghị quyết của tòa án xét không đúng luật pháp, đối với biên bản hòa giải thành phạm đến trật tự hoặc quyền lợi chung, công tố ủy viên có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên đã thỏa thuận).

d) Thi hành và đôn đốc thi hành các bản án và quyết định của tòa án về hình sự, dân sự, và kiểm sát chế độ giam giữ ở các trại tạm giam, trại cải tạo có hợp pháp không (như việc thi hành án có làm trong hạn luật định không) việc tịch thu tài sản và những mệnh lệnh khác của tòa án có thi hành đúng như luật định không, những phạm nhân mãn hạn tù đã được tha chưa…).

e) Có quyền khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân (như những vụ án có liên quan đến nhà máy, hợp tác xã, trường học, phương tiện vận tải… hoặc những vụ án có liên quan đến quyền lợi của người vị thành niên, người mất trí…).

f) Hướng dẫn đường lối truy tố của tòa cấp dưới.

2. Ông Chánh án, dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp, có nhiệm vụ:

a) Đối với những vụ dân sự  thụ lý, điều tra lập hồ sơ, hòa giải hoặc đưa ra tòa án xét xử.

b) Đối với những vụ hình sự, khi công tố ủy viên chuyển sang hồ sơ thì tự mình tăng cứu hoặc đề nghị công tố ủy viên tăng cứu nếu cần, đưa ra xét xử. Trong lúc nghiên cứu hồ sơ, ông chánh án thấy không cần thiết giam cứu bị can nữa, hoặc  thấy cần thiết giam cứu bị can còn tại ngoại thì ông chánh án đề nghị với công tố ủy viên giải quyết. Nếu công tố uỷ viên không đồng ý thì sẽ báo cáo lên công tố ủy viên cấp trên quyết định.

Khi ra trước phiên tòa chánh án là chủ trì có trách nhiệm giữ gìn trật tự, bảo đảm sự tôn thu pháp luật, gặp trường hợp thấy cần thết bắt giam cứu bị can thì ông Chánh án, sau khi trao đổi ý kiến với ông công tố ủy viên và được sự đồng ý của hai hội thẩm nhân dân thì ký lệnh bắt.

c) Nhận đơn chống án của đương sự, lập hồ sơ kháng cáo, nghiên cứu và phúc lại những vụ án bị chống trong phạm vi thẩm quyền do luật định.

d) Hướng dẫn đường lối hòa giải và xét xử của tòa án cấp dưới.

3. Ông Phó Chánh án, cùng với ông chánh án chịu trách nhiệm chung (ông chánh án chịu trách nhiệm chính) về đường lối xử án, giúp ông chánh án về mọi mặt công tác và đương nhiên thay mặt ông này khi đi vắng.

4. Ông phó công tố ủy viên cùng với ông công tố ủy viên chịu trách nhiệm chung (ông công tố ủy viên chịu trách nhiệm chính) về đường lối truy tố, có nhiệm vụ giúp đỡ ông công tố ủy viên về mọi mặt và đương nhiên thay mặt ông này khi đi vắng.

Ngoài ra ông phó công tố ủy viên, phó chánh án còn được phân công riêng phụ trách nhiệm một vài loại việc nào, tuỳ theo hoàn cảnh tình hình cán bộ. Trong phạm vi được phân công, ông phó công tố uỷ viên, phó chánh án với đường lối chủ trương đường lối chung quyết định việc thực hiện, ký các giấy tờ cần thiết thay cho ông công tố ủy viên, và chánh án.

5. Ông thẩm phán làm việc ở phòng công tố thì chịu sự điều khiển của ông công tố ủy viên, nếu ở phòng xét xử án thì chịu sự điều khiển của ông chánh án, có trách nhiệm trong phạm vi phân công và uỷ nhiệm, từng công tác, hoặc từng thời gian công tác, hoặc từng thời gian nào, khác hơn ông phó công tố uỷ viên và chánh án là người cùng với ông công tố ủy viên và chánh án chịu trách nhiệm chung về mọi mặt. Tuy nhiên việc phân công các ông thẩm phán cần phải được rành mạch, có chuẩn bị, có phân công trước để cho ông thẩm phán có thể chủ động công tác  của mình, phát huy sáng kiến, trừ việc đột xuất thì không kể, tránh tình trạng như một vài nơi mắc phải là phân công linh tinh không rõ trách nhiệm, làm trở ngại của ông thẩm phán.

[...]