BỘ
NỘI VỤ
*****
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
14-NV
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 07 năm 1965
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 51-TTG/NC NGÀY 17/05/1965 CỦA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CHẤP HÀNH CÁC CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI
THƯƠNG BINH, BỆNH BINH VÀ GIA ĐÌNH LIỆT SĨ
Kính
gửi: Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Để thi hành thông tư số
51-TTg/NC ngày 17/05/1965 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường chấp hành
các chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, Bộ Nội
vụ giải thích và hướng dẫn cụ thể những điểm sau đây:
I. VIỆC SẤP XẾP
VIỆC LÀM, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG CHO THƯƠNG BINH VÀ BỆNH BINH CÒN TẠI NGŨ.
Việc giải quyết công việc làm và
đời sống đối với thương binh, bệnh binh sẽ xuất ngũ từ nay về sau phải quán triệt
yêu cầu là phải giải quyết tốt ngay từ đầu, tạo điều kiện cho anh em nhanh
chóng ổn định đời sống, không để một anh em nào không có công việc làm ổn định
hoặc đời sống khó khăn.
Hội đồng Chính phủ đã đề ra các
hướng giải quyết công việc làm, ổn định đời sống cho thương binh, bệnh binh như
sau:
A. Đối với
những thương binh có thương tật nặng, không còn khả năng lao động, Nhà nước đảm
bảo việc nuôi dưỡng lâu dài.
Nếu anh em có gia đình ở địa
phương và tự nguyện xin về, thì sẽ tạo điều kiện cho anh em về địa phương an dưỡng
ở gia đình. Vì vậy, ngoài việc Nhà nước trợ cấp thương tật, Ủy ban hành chính địa
phương cần giúp đỡ anh em làm thêm những công việc thích hợp với khả năng lao động
còn lại của anh em, giúp đỡ gia đình anh em trong công việc làm ăn, để ít nhất
anh em cũng có được mức sống như mức sống trung bình của nhân dân địa phương.
Nếu anh em không có điều kiện về
địa phương (không có gia đình hoặc tuy có gia đình nhưng gia đình không có điều
kiện săn sóc anh em chu đáo...) thì sẽ đưa về trại thương binh.
B. Đối với
những thương binh và những bệnh binh miền Nam
còn khả năng lao động.
Phải sắp xếp công việc làm thích
hợp với thương tật, khả năng và hoàn cảnh của từng người, hết sức sử dụng một
cách hợp lý nhất khả năng lao động còn lại của anh em. Hướng sắp xếp công việc
làm cho thương binh, bệnh binh như sau:
1. Những anh em có gia đình ở địa
phương sẽ được chuyển về Ủy ban hành chính nơi quê quán hoặc nơi anh em cư trú
trước khi nhập ngũ đề tạo điều kiện cho anh em về địa phương tham gia sản xuất
và công tác.
Ở nông thôn, chỉ nên đưa về những
anh em còn sản xuất nông nghiệp được, hoặc tuy khả năng sản xuất nông nghiệp bị
hạn chế, nhưng Ủy ban hành chính xã, hợp tác xã đảm bảo có công việc thích hợp
giao cho anh em làm; những thương binh còn ít khả năng sản xuất nông nghiệp
(như thương binh cụt chân...) thì không nên đưa về nông thôn, trừ trường hợp
anh em tự nguyện xin về. Khi anh em đã về xã, các hợp tác xã cần tích cực giúp
đỡ anh em trong công việc làm ăn theo chỉ thị số 455-TTg ngày 14/12/1959 về
chính sách đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ trong phong trào
hợp tác hóa nông nghiệp, để sau một thời gian tương đối ngắn, anh em ổn định được
đời sống. Chú ý cho anh em đi học các trường đào tạo cán bộ kỹ thuật cho xã, hoặc
hợp tác xã.
Ở thành phố, thị xã, nhất thiết
phải đảm bảo cho thương binh, bệnh binh có nghề nghiệp ổn định, và chỉ nên đưa
về sản xuất “tự túc” những anh em có thể sắp xếp công việc làm ổn định trong
các hợp tác xã thủ công nghiệp, còn thì nên giải quyết theo các hướng khác.
Trước khi đưa thương binh về địa
phương, cần phải trao đồi cụ thể và dứt khoát với Ủy ban hành chính xã, khu phố,
với hợp tác xã về công việc làm của anh em, và cần giải thích cho anh em thông
suốt để vui vẻ về địa phương tham gia sản xuất và công tác, tránh tình trạng về
địa phương một thời gian rồi lại xin đi công tác thoát ly.
Đối với thương binh miền Nam,
bệnh binh miền Nam
thì không đưa về địa phương sản xuất.
2. Những thương binh, bệnh binh
là người dân tộc thiểu số, nếu quê ở miền Nam, thì Bộ Quốc phòng sẽ chuyển sang
Ủy ban dân tộc để đào tạo thành cán bộ người dân tộc; nếu quê ở miền Bắc thì được
chuyển về Ủy ban hành chính tỉnh nơi quê quán để tạo điều kiện cho anh em tham
gia sản xuất, công tác hoặc để đào tạo thành cán bộ người dân tộc.
3. Những thương binh, bệnh binh
không có điều kiện về địa phương, tùy theo khả năng của từng người, có thể được
sắp xếp vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, theo tỷ lệ 5%
biên chế:
- Hoặc chuyển ngành thẳng, nếu
anh em có thể làm việc được ngay;
- Hoặc qua một thời gian đào tạo
nghề nghiệp rồi mới chuyển vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp. Nếu trình
độ văn hóa thấp, anh em được bổ túc văn hóa đến một trình độ cần thiết rồi mới
học tập nghề nghiệp. Đặc biệt đối với thương binh miền Nam,
bệnh binh miền Nam, tuổi còn
trẻ, cần chú ý bồi dưỡng, đào tạo thành cán bộ cho miền Nam
sau này. Để bổ túc văn hóa và đào tạo nghề nghiệp cho thương binh, bệnh binh chủ
yếu là đưa anh em vào học ở các trường văn hóa và chuyên nghiệp do các ngành,
các địa phương mở (theo quy định của Hội đồng Chính phủ, các trường bổ túc văn
hóa, trường nghiệp vụ, trường chuyên nghiệp phải dành mỗi khoá một số chỗ để nhận
anh em vào học), đối với một số nghề không có ngành nào phụ trách đào tạo thì Bộ
Nội vụ sẽ tổ chức trường, lớp để đào tạo anh em.
Hội đồng Chính phủ đã quy định
chính sách tuyển dụng thương binh và bệnh binh vào làm việc trong các cơ quan,
xí nghiệp của Nhà nước. Bộ sẽ cùng với Bộ lao động có văn bản hướng dẫn cụ thể
sau.
4. Cùng với việc sắp xếp cho
thương binh, bệnh binh vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước,
cần phải tổ chức các cơ sở sản xuất để thu nhận những thương binh, bệnh binh
không thể sắp xếp công việc làm theo các hướng trên được.
Bộ sẽ hướng dẫn cụ thể về tổ chức
cũng như về các chế độ ưu đãi mà Hội đồng Chính phủ đã quy định cho các cơ sở sản
xuất nói trên.
Căn cứ vào các hướng trên đây, cần
phải nắm vững khả năng, hoàng cảnh, nguyện vọng của từng thương binh, bệnh binh
để phân loại cho thích hợp, đảm bảo giải quyết tốt công tác làm, tạo điều kiện
cho anh em nhanh chóng ổn định đời sống và phát huy khả năng của mình trên
cương vị công tác mới.
Để quân đội tập trung vào huấn
luyệt và sẵn sàng chiến đấu, Hội đồng Chính phủ đã quy định là sau khi thương
binh đã chữa lành vết thương, bệnh binh đã chữa khỏi bệnh nhưng không đủ điều
kiện sức khỏe để tiếp tục phục vụ trong quân đội, Bộ Quốc phòng sẽ cho xuất ngũ
và chuyển sang cho Bộ Nội vụ quản lý để có kế hoạch sắp xếp công việc làm, ổn định
đời sống cho anh em, Việc tiếp nhận thương binh, bệnh binh ấn dịnh như sau:
1. Nếu là thương binh không còn
khả năng lao động thì Bộ sẽ phân phối về các trại thương binh;
2. Nếu là thương binh, bệnh binh
còn khả năng lao động, cần phải sắp xếp công việc làm, thì Bộ sẽ giao cho Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố tiếp nhận, quản lý và sắp xếp công việc làm,
theo sự phân công như sau:
- Thương binh miền Bắc, quê quán
ở tỉnh nào hoặc trước khi nhập ngũ cư trú ở tỉnh nào, thì tỉnh đó chịu trách
nhiệm tiếp nhận;
- Thương binh miền Nam
thì sẽ phân phối về các tỉnh tùy theo khả năng sắp xếp công tác hoặc khả năng
thu nhận vào học các trường bổ túc văn hóa, trường chuyên nghiệp của từng địa
phương.
Sau khi tiếp nhận thương binh, bệnh
binh các tỉnh phải sắp xếp công việc làm cho anh em trong một thời gian ngắn
(một, hai tháng trở lại), không nên để anh em chờ đợi lâu.
Ủy ban hành chính các tỉnh,
thành phố cần tổ chức các trạm đón tiếp thương binh để tiếp nhận và quản lý những
thương binh, bệnh binh do quân đội chuyển về hoặc do Bộ phân phối về. Trong lúc
đầu, số thương binh phải quản lý còn ít, thì không cần thiết có một bộ máy
riêng, mà nên sử dụng bộ máy sẵn có của Ủy ban để quản lý anh em, khi số thương
binh phải quản lý lên đến 10 người trở lên, thì phải tổ chức bộ máy phục vụ, Bộ
sẽ có hướng dẫn riêng về tổ chức bộ máy của các trạm đón tiếp thương binh, về dự
trù kinh phí và cấp phát lương hoặc sinh hoạt phí cho thương binh, bệnh binh.
Thương binh, bệnh binh về trạm
đón tiếp là để chờ sấp xếp công việc làm, thời gian anh em ở trạm nói chung là
ngắn, nên nội dung công tác của trạm là đảm bảo sinh hoạt bình thường và có nền
nếp (ăn, ở, giải trí...), phổ biến và giải thích chính sách, giúp Ủy ban hành
chính tỉnh nắm lý lịch, khả năng, hoàn cảnh, nguyện vọng của anh em, để sắp xếp
công việc làm.
Bộ cũng sẽ tổ chức trạm đón tiếp
thương binh hoặc trại thương binh để thu nhận một số thương binh do quân đội
chuyển về mà vì lý do nào đó không thể giao thẳng ngay về Ủy ban hành chính tỉnh
hoặc do các tỉnh chuyển về vì không thể sắp xếp công việc làm cho anh em ở địa
phương được.
II. VIỆC ỔN ĐỊNH
ĐỜI SỐNG CHO THƯƠNG BINH, BỆNH BINH ĐÃ VỀ ĐỊA PHƯƠNG VÀ SĂN SÓC, GIÚP ĐỠ CÁC
GIA ĐÌNH LIỆT SĨ
Đối với thương binh, bệnh binh
đã về địa phương mà đời sống hiện nay đang gặp khó khăn, Ủy ban hành chính địa
phương phải tìm mọi biện pháp, chủ yếu là sắp xếp công việc làm, để giúp đỡ anh
em ổn định đời sống. Nói chung, phải ổn định đời sống, sắp xếp công việc làm
cho thương binh, bệnh binh tại chỗ là chính, nếu còn một số anh em không thể giải
quyết theo hướng đó được, thì tùy tình hình cụ thể có thể sắp xếp vào làm việc
trong các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước (nếu cần thiết có thể cho anh em học
nghề rồi mới sắp xếp làm), theo tỷ lệ 5% biên chế, hoặc sắp xếp vào các cơ sở sản
xuất tổ chức riêng cho thương binh, bệnh binh. Tỉnh nào cần tổ chức cơ sở sản
xuất thì báo cáo cụ thể cho Bộ biết để hướng dẫn, giúp đỡ việc tổ chức.
Đối với các gia đình liệt sĩ mà
đời sống đã ổn định rồi, thì chủ yếu là săn sóc, giúp đỡ về mặt tinh thần, nếu
còn gặp khó khăn về đời sống (như cha mẹ của liệt sĩ già yếu mất sức lao động,
vợ liệt sĩ ốm đau thường xuyên...) thì Ủy ban hành chính địa phương phải hết sức
giúp đỡ để gia đình này có mức sống bình thường, nếu địa phương đã giúp đỡ rồi
mà gia đình liệt sĩ còn gặp khó khăn thì Nhà nước trợ cấp giúp đỡ thêm, theo
Nghị định số 14-CP ngày 02/02/1962 của Hội đồng Chính phủ. Chú ý đào tạo, bồi
dưỡng vợ của các liệt sĩ tham gia công tác ở địa phương.
Đối với con liệt sĩ, chính sách
của Đảng và Chính phủ là phải tạo điều kiện cho các cháu được ăn học chu đáo,
chú trọng đào tạo các cháu trở thành những cán bộ hoặc công dân tốt. Vì vậy, Ủy
ban hành chính các cấp phải quản lý chặt chẽ số con liệt sĩ ở địa phương mình,
phải nắm chắc tình hình đời sống và sự học tập của từng cháu, để có kế hoạch
săn sóc, giúp đỡ cho thích hợp và cần vận động các đoàn thể nhân dân tham gia
việc trông nom, săn sóc các cháu. Về mặt đời sống, nếu các cháu đã có người
thân thuộc trong nom, thì thường xuyên nhắc nhở gia đình nuôi dạy các cháu cho
chu đáo, nếu còn có cháu nào không có người trông nom, thì vận động bà con,
thân thuộc trông nom chu đáo, không để một cháu nào không có nơi nương tựa chắc
chắn; ngoài việc bà con, thân thuộc nuôi dưỡng các cháu theo khả năng của mình,
cần vận động các hợp tác xã giúp đỡ thêm tùy theo hoàn cảnh của từng cháu (nuôi
hoàn toàn, hoặc giúp đủ thóc ăn...), nếu còn thiếu, thì Nhà nước trợ cấp thêm
theo Nghị định số 14-CP ngày 02/02/1962 của Hội đồng Chính phủ, có thể trợ cấp
thường xuyên mỗi năm cả 12 tháng cho đến khi các cháu trưởng thành. Khi các
cháu vào học các trường chuyên nghiệp hoặc đại học, thì các trường ưu tiên cấp
học bổng cho các cháu, ngoài ra cần vận động các hợp tác xã tiếp tục giúp đỡ
các cháu như khi còn ở địa phương, nếu vẫn còn thiếu, thì Nhà nước trợ cấp
thêm. Về mặt học tập thì cần giúp đỡ các cháu học tập chu đáo, nói chung là phải
đảm bảo cho các cháu học hết cấp II, và tích cực tạo điều kiện cho các cháu có
khiếu thông minh vào học các trường chuyên nghiệp hoặc đại học trên tinh thần
ưu tiên đối với con liệt sĩ. Khi các cháu đã đến tuổi trường thành, cần giúp đỡ
cho các cháu có công việc làm ổn định, cháu nào có khả năng thì đưa vào làm việc
trong các cơ quan xí nghiệp của Nhà nước.
III. VỀ VIỆC
BỔ SUNG MỘT SỐ CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH, BỆNH BINH VÀ GIA ĐÌNH LIỆT SĨ
A. Chế độ được trợ cấp khó
khăn cho thương binh, bệnh binh.
Để ổn định đời sống của thương
binh, bệnh binh, vấn đề chủ yếu là sắp xếp công việc làm thích hợp với khả năng
và hoàn cảnh của thương binh, bệnh binh, nếu còn gặp khó khăn, thì Ủy ban hành
chính ở cấp cơ sở phải tìm mọi biện pháp giúp đỡ. Sau khi chính quyền và nhân
dân địa phương đã tận tình giúp đỡ mà đời sống của anh em vẫn còn khó khăn, thì
đề nghị lên Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố xét trợ cấp thêm, để anh em giữ
được mức sinh hoạt bình thường.
a) Đối tượng được xét trợ cấp là
thương binh (kể cả dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương trong thời
kỳ kháng chiến, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị thương từ khi hòa bình lập lại)
và bệnh binh. Bệnh binh nói ở đây là những quân nhân giải ngũ trong thời kỳ
kháng chiến, phục viên từ khi hòa bình được lập lại vì mắc bệnh đến nay bệnh vẫn
còn đau luôn và bị mất sức lao động (không phân biệt có được trợ cấp mất sức
lao động hay không) – Quân nhân giải ngũ, quân nhân phục viên nêu không phải là
bệnh binh mà đời sống gặp nhiều khó khăn thì được xét trợ cấp theo công văn số
908-LĐ/CT-XH của Bộ Lao động.
b) Tiêu chuẩn để xét trợ cấp là:
nếu so với mức sống trung bình của nhân dân địa phương trong hoàn cảnh bình thường,
mà mức sống của thương binh, bệnh binh thấp hơn rõ rệt, thì xét trợ cấp để anh
em giữ được mức sinh hoạt bình thường.
Những anh em gặp hoàn cảnh sau
đây mà đời sống gặp khó khăn thì được xét trợ cấp:
- Vì thiếu sức lao động, làm được
ít, thu nhập thấp, hoặc vì bản thân thiếu sức lao động, gia đình lại khó khăn
(vợ yếu, tàn tật, con đông v.v...);
- Vì không có công việc làm, hoặc
tuy có công việc làm nhưng không ổn định, thu nhập quá thấp, vì không có cơ sở
sản xuất, hoặc cơ sở sản xuất quá kém;
- Vì tai nạn bất thường (cháy
nhà, bão lụt, hoặc tai nạn bị tàn phá vì địch họa...).
c) Việc xét trợ cấp phải thích
đáng, tránh nhỏ giọt, không những giải quyết khó khăn trước mắt (thiếu ăn, chữa
bệnh...), mà còn nhằm tạo điều kiện ổn định đời sống lâu dài (giúp xây dựng cơ
sở sản xuất, giúp phương tiện sản xuất...).
Mức trợ cấp cho mỗi người, mỗi lần
không quá 60 đồng, một năm không quá hai lần. Gặp trường hợp đặc biệt, nếu đã
trợ cấp đến hai lần rồi, mà đời sống của thương binh, bệnh binh còn gặp khó
khăn, thì có thế xét trợ cấp lần thứ ba. Thông thường, thì xét trợ cấp vào hai
vụ, sau khi đã nắm được thu nhập của anh em (bao gồm cả sự giúp đỡ của hợp tác
xã). Nếu trợ cấp để tạo cơ sở sản xuất mà một lần với mức tối đa 60 đồng không
đủ thì có thế trợ cấp hai lần liên nhau.
Mỗi khi xét trợ cấp cho thương
binh, bệnh binh, Ủy ban hành chính tỉnh cần ra quyết định trợ cấp, có sổ sách
theo dõi (sẽ có mẫu gửi về), và cần thông báo cho Ủy ban hành chính huyện và xã
biết để theo dõi, hướng dẫn việc sử dụng trợ cấp cho đúng.
B. Chế độ cung cấp lương thực,
vải, đường.
Tổng cục Lương thực và Bộ Nội
thương sẽ có văn bản hướng dẫn riêng.
C. Các chế độ ưu đãi khác đối
với thương binh.
Đề tiến tới thống nhất chính
sách đối với thương binh, Hội đồng Chính phủ đã quyết định trừ chế độ trợ cấp
thương tật (bao gồm cả trợ cấp vì cần người phục vụ, trợ cấp vì có hành động
dũng cảm), các chế độ ưu đãi khác đều được áp dụng chung đối với thương binh
trong thời kỳ kháng chiến cũng như từ khi hòa bình lập lại.
Như vậy là:
1. Hiện nay thi hành song song
hai chế độ trợ cấp thương tật:
a) Chế độ “trợ cấp thương tật” gồm
8 hạng thi hành cho thương binh bị thương từ ngày 01/01/1961 trở về sau, và
thương binh bị thương vì làm nhiệm vụ từ khi hòa bình được lập lại mà chưa hưởng
chế độ phụ cấp thương tật cũ (6 hạng). Chế độ trợ cấp thương tật gồm:
- Trợ cấp thương tật, quy định
trong điều 9 của Điều lệ về các chế độ đãi ngộ quân nhân trong khi ốm đau, bị
thương, mất sức lao động, về hưu hoặc chết...;
- Trợ cấp vì cần người phục vụ
quy định trong điểm 3, điều 14 của Điều lệ;
- Trợ cấp vì có hành động dũng cảm
quy định trong điều 15 của Điều lệ.
b) Chế độ “phụ cấp thương tật” gồm
6 hạng thi hành cho thương binh bị thương trong kháng chiến, và thương binh bị
thương từ khi hòa bình được lập lại, không phải là đối tượng được hưởng chế độ
trợ cấp thương tật 8 hạng nói trên.
2. Những chế độ ưu đãi đã được
quy định trong các điều 16, 17, 18 của Điều lệ, có sự hướng dẫn thi hành cụ thể
trong Thông tư số 104-LB/QP ngày 12/04/1965 của Liên bộ Quốc phòng – Công an –
Nội vụ sẽ được áp dụng đối với thương binh hưởng theo chế độ phụ cấp thương tật
cũ, Cụ thể là:
a) Thương binh khi xuất ngũ vào
nhà an dưỡng, trại thương binh hoặc về gia đình, nếu đang hưởng trợ cấp con thì
vẫn được lĩnh trợ cấp của những đứa con đó theo chế độ hiện hành.
Khi ốm đau được khám và chữa bệnh
tại cơ sở y tế nơi cư trú, được hưởng chế độ thuốc men, bồi dưỡng như công
nhân, viên chức Nhà nước đi điều trị; nếu chết ở bệnh viện, thì được trợ cấp tiền
chôn cất như công nhân viên chức Nhà nước chết; nếu do vết thương hoặc bệnh cũ
tái phát, thì được hưởng theo thông tư số 19-TT/LB ngày 19/03/1962 của Liên bộ
Nội vụ - Y tế - Tài chính đã quy định (áp dụng điều 16 của Điều lệ).
b) Thương binh đã ra ngoài quân
đội chết do vết thương cũ tái phát và thương binh được xếp hạng thương tật hạng
1, hạng đặc biệt chết vì ốm đau thì được trợ cấp tiền chôn cất theo quy định ở
điều 43 của Điều lệ (áp dụng điều 17 của Điều lệ).
c) Thương binh đã ra ngoài quân
đội khi chết, thân nhân được xét trợ cấp tiến tuất:
- Thương binh bị thương vì chiến
đấu với địch, vì anh dũng làm nhiệm vụ, xứng đáng được nêu gương cho đơn vị học
tập được xác định là liệt sĩ (phải xét duyệt cụ thể trường hợp bị thương trước
đây), thì thân nhân được hưởng tiền tất theo quy định ở điểm a điều 45 của Điều
lệ.
- Thương binh bị thương vì làm
nhiệm vụ do vết thương cũ tái phát, và thương binh bị thương vì chiến đấu với địch,
vì làm nhiệm vụ, thương tật hạng 1, hạng đặc biệt, chết vì ốm đau, thì thân
nhân được hưởng tiền tuất theo quy định ở điểm b, điều 45 của Điều lệ.
Trường hợp không đủ điều kiện hưởng
tiền tuất hàng tháng, nếu gia đình gặp khó khăn, thì được xét trợ cấp theo Nghị
định số 14-CP ngày 02 tháng 02 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ (áp dụng điều 18
của Điều lệ).
3. Những chế độ ưu đãi thương
binh như huy hiệu thương binh, miễn đi dân công, miễn lao động nghĩa vụ, ưu đãi
về mặt văn hóa, nghệ thuật, ưu đãi thương binh đi xe lửa, xe điện, miễn bưu
phí, chính sách giúp đỡ thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ trong phong
trào hợp tác hóa nông nghiệp, đã ban hành trước khi ban hành Điều lệ tạm thời về
các chế độ đãi ngộ quân nhân trong khi ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về
hưu hoặc chết... cũng sẽ áp dụng đối với thương binh hướng theo các chế độ đãi
ngộ quy định trong Điều lệ. Đối với những điều khoản ưu đãi theo hạng thương tật,
thì sẽ căn cứ vào tương quan giữa các hạng thương tật sau đây mà thi hành:
- Hạng 1, hạng đặc biệt cũ tương
đương với hạng 6, hạng 7, hạng 8 mới;
- Hạng 3, hạng 2 cũ tương đương
với hạng 2, hạng 3, hạng 4, hạng 5 mới;
- Hạng 5, hạng 4 cũ tương đương
với hạng 1 mới.
Các Bộ có liên quan sẽ ra văn bản
hướng dẫn thi hành cụ thể các chế độ nói trên.
D. Về chế độ ưu đãi đối với
dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương vì chiến đấu với địch trong
thời kỳ kháng chiến, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị thương vì chiến đấu với
địch từ khi hòa bình lập lại.
Theo quyết định của Hội đồng
Chính phủ, trừ chế độ trợ cấp thương tật đã quy định và các chế độ ưu đãi dành
riêng cho thương binh (như huy hiệu thương binh, miễn bưu phí...) còn các chế độ
ưu đãi khác đối với thương binh đều được áp dụng đối với dân quân, du kích,
thanh niên xung phong bị thương vì chiến đấu với địch trong thời kỳ kháng chiến
và quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị thương vì chiến đấu với địch từ khi hòa
bình lập lại.
Cụ thể như sau:
1. Về chế độ trợ cấp thương tật,
dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương vì chiến đấu với địch trong
thời kỳ kháng chiến vẫn hưởng phụ cấp thương tật theo quy định trong nghị định
số 13-CP ngày 02/02/1962 của Hội đồng Chính phủ; quân dân dự bị, dân quân tự vệ
bị thương vì chiến đấu với địch từ khi hòa bình lập lại hưởng phụ cấp thương tật
như thương binh loại A (bao gồm cả trợ cấp vì cần người phục vụ và trợ cấp vì
có hành động dũng cảm).
2. Về các chế độ ưu đãi khác,
dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương vì chiến đấu với địch trong
thời kỳ kháng chiến (đã được cấp sở phụ cấp thương tật và giấy chứng nhận),
quân nhân dự bị; dân quân tự vệ bị thương vì chiến đấu với địch từ khi hòa bình
được lập lại, được hưởng những chế độ ưu đãi sau đây như thương binh:
a) Chế độ ưu đãi quy định trong
Điều lệ tạm thời:
- Chế độ chữa bệnh khi ốm đau,
khi bị vết thương tái phát (áp dụng điều 16 của Điều lệ);
- Chế độ trợ cấp tiền chôn cất
(áp dụng điều 17 của Điều lệ) cho dân quân, du kích, thanh niên xung phong,
quân nhân dự bị, du kích, dân quân tự vệ bị thương vì chiến đấu với địch; chết
vì vết thương tái phát, và cho dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị
thương hạng 1, hạng đặc biệt, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị thương tật từ
hạng 6 đến hạng 8, chết vì ốm đau.
- Chế độ trợ cấp tiền tuất (áp dụng
điều 18 của Điều lệ) cho thân nhân của dân quân, du kích, thanh niên xung
phong, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị thương vì chiến đấu với địch chết vì
vết thương tái phát được xác định là liệt sĩ và dân quân, du kích, thanh niên
xung phong thương tật hạng 1, hạng đặc biệt, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ
thương tật từ hạng 6 đến hạng 8, chết vì ốm đau.
- Chế độ cấp chân tay giả, mắt
giả, kính, máy điếc...(áp dụng điều 19 Điều lệ) cho quân nhân dự bị, dân quân tự
vệ bị thương vì chiến đấu với địch. Đối với dân quân, du kích, thanh niên xung
phong bị thương vì chiến đấu với địch trong thời kỳ kháng chiến, việc cấp phát
các phương tiện trên đây thi hành theo thông tư số 89-TT/LB ngày 23/04/1959 của
Bộ thương binh.
b) Chế độ ưu đãi ban hành trước
ngày ban hành Điều lệ tạm thời:
- Chế độ miễn đi dân công, miễn
lao động nghĩ vụ;
- Chế độ ưu đãi về mặt văn hóa,
nghệ thuật;
- Chế độ ưu đãi đi xe lửa, xe điện;
- Chính sách giúp đỡ thương
binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.
c) Các chế độ ưu đãi mới được
quy định trong thông tư số 51-TTg/NC ngày 17/05/1965:
- Chế độ trợ cấp khó khăn;
- Chế độ cung cấp lương thực, vải,
đường;
- Chế độ miễn viện phí cho gia
đình của dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương, quân nhân dự bị,
dân quân tự vệ bị thương vào loại tàn phế.
Các Bộ có liên quan sẽ ra văn bản
hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các chế độ ưu đãi trên đây đối với dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ bị
thương.
E. Về chế độ chữa bệnh cho
thương binh, bệnh binh.
Bộ Y tế sẽ hướng dẫn cụ thể về
việc ưu tiên thu nhận thương binh, bệnh binh vào chữa bệnh ở bệnh viện.
Về chế độ chữa bệnh cho thương
binh, bệnh binh, quân dân phục viên bị bệnh cũ trong thời gian tái ngũ tái phát
quy định trong thông tư số 19-TT/LB ngày 19/03/1962, nay Bộ giải thích thêm về
việc bồi dưỡng cho thương binh được vào nằm điều trị ở bệnh viện như sau: tiền
bồi dưỡng nói ở điểm 1, “chữa bệnh ở bệnh viện” bao gồm: tiền bồi thường khi điều
trị và sau khi ra viện (nếu được bệnh viện đề nghị).
G. Một số chế độ ưu đãi đối với
gia đình liệt sĩ và gia đình của thương binh tàn phế.
Theo thông tư số 51-TTg/NC ngày
17/05/1965 của Hội đồng Chính phủ, những thân nhân của liệt sĩ thuộc diện được
trợ cấp tiền tuất hàng tháng (theo điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân
nhân trong khi ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu hoặc chết) hoặc phải
có sự giúp đỡ thường xuyên của nhân dân và của Nhà nước (theo Nghị định số
14-CP ngày 02/02/1962 của Hội đồng Chính phủ) khi chết sẽ được Nhà nước giúp đỡ
chôn cất chu đáo.
Ủy ban hành chính cấp cơ sở vận
động nhân dân giúp đỡ việc chôn cất, nếu địa phương không tự đảm bảo được phí tổn
về chôn cất, thì đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh xét trợ cấp thêm. Tiền trợ cấp
cho mỗi người nhiều hay ít tùy theo sự giúp đỡ của địa phương, nhưng nhiều nhất
không quá 80 đồng.
Để thi hành Thông tư số
51-TTg/NC ngày 17/05/1965 của Hội đồng Chính phủ, đề nghị Ủy ban bàn bạc cụ thể
với các đoàn thể nhân dân về trách nhiệm tham gia thực hiện chính sách thương
binh liệt sĩ, đưa vần đề ra bàn bạc ở Hội đồng nhân dân, phổ biến sâu rộng
Thông tư nói trên tới các ngành các cấp, tới cán bộ và nhân dân, tới thương
binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, làm cho mọi người thấu suốt tinh thần
chính sách của Đảng và Chính phủ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt
sĩ để hết sức góp phần vào việc thực hiện chính sách đó.
Đối với một số vấn đề cần phải
có sự hướng dẫn cụ thể của các ngành, thì phải chờ có văn bản hướng dẫn của các
ngành sẽ thi hành.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Ung Văn Khiêm
|