Thông tư 14-NT năm 1973 tạm thời quy định chế độ tiền thưởng tăng năng suất lao động với chất lượng công tác tốt cho nhân viên kinh doanh thương nghiệp và ăn uống công cộng do Bộ Nội thương ban hành

Số hiệu 14-NT
Ngày ban hành 08/05/1973
Ngày có hiệu lực 01/05/1973
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội thương
Người ký Hoàng Quốc Thịnh
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ NỘI THƯƠNG
******

 VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 14-NT

Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 1973 

 

THÔNG TƯ

TẠM THỜI QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TIỀN THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG VỚI CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TỐT CHO NHÂN VIÊN KINH DOANH THƯƠNG NGHIỆP VÀ ĂN UỐNG CÔNG CỘNG.

Ngày15-5-1971 Bộ Nội thương đã ban hành thông tư số 09-NT về chế độ tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ cho nhân viên kinh doanh thương nghiệp và ăn uống công cộng.

Tuy mới thực hiện năm 1971, chế độ tiền thưởng trên đã phát huy tác dụng tốt: khuyến khích nhân viên thương nghiệp phấn đấu nâng cao chất lượng công tác và năng suất lao động, góp phần hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch ở nhiều đơn vị kinh doanh.

Tuy nhiên, nội dung chính sách còn những mặt tồn tại như: chưa phân rõ các nguồn tiền thưởng khác nhau, chưa thể hiện rõ yêu cầu tăng năng suất lao động gắn chặt với nâng cao chất lượng công tác.

Căn cứ vào các chế độ tiền thưởng của Nhà nước trong thông tư số 3-LĐ ngày 22-1-1957 và thông tư số 24-LĐ ngày 30-11-1957 của Bộ Lao động, sau khi trao đổi thống nhất với các Bộ có liên quan và được sự thỏa thuận của Bộ Lao động (tại công văn số 56-LĐTL ngày 6-2-1973), Bộ Nội thương ra thông tư này tạm thời quy định chế độ thưởng thường xuyên cho nhân viên kinh doanh thương nghiệp và ăn uống công cộng nhằm mục đích khuyến khích mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, cải tiến công tác kinh doanh để nâng cao năng suất lao động với chất lượng công tác tốt, góp phần hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch lưu chuyển hàng hóa của ngành.

I. ĐỐI TƯỢNG THƯỞNG

Chế độ tiền thưởng này áp dụng cho nhân viên trực tiếp kinh doanh thuộc lực lượng lao động thường xuyên, đang hưởng lương theo thời gian trong các cửa hàng (và các đơn vị tương đương) kinh doanh thương nghiệp, ăn uống công cộng, bao gồm:

- Cửa hàng thu mua,

- Cửa hàng bán buôn, bán lẻ,

- Cửa hàng ăn uống công cộng và khách sạn,

- Trạm kinh doanh, đơn vị kho trực thuộc công ty, chi nhánh bán buôn.

Ở các cửa hàng mà các cán bộ, nhân viên nghiệp vụ quản lý hàng ngày có tham gia lao động vào các công việc trực tiếp kinh doanh (mua, bán hàng, đóng gói, chọn lọc hàng hóa...) và được phân loại là nhân viên trực tiếp kinh doanh, theo quyết định số 242-TCTK ngày 3-11-1971 của Tổng cục Thống kê, thì những người đó cũng được hưởng chế độ tiền thưởng này.

Những đối tượng sau đây không thuộc diện thi hành chế độ tiền thưởng:

- Những công nhân sản xuất, chế biến đang hưởng lương sản phẩm, lương khoán hoặc hưởng chế độ thưởng tăng năng suất quy định cho công nhân sản xuất, theo thông tư số 380-NT ngày 1-7-1969 của Bộ Nội thương;

- Những người làm việc tạm thời theo chế độ lương công nhật, hợp đồng, học việc và học sinh thực tập.

(Đối với cán bộ, nhân viên quản lý, công tác ở cửa hàng, công ty, tổng công ty sẽ có chế độ tiền thưởng riêng).

II. ĐIỀU KIỆN VÀ MỤC ĐÍCH TIỀN THƯỞNG CHUNG CHO CỬA HÀNG

Để đảm bảo hiệu quả kinh tế một cách vững chắc, việc thưởng tăng năng suất cho nhân viên kinh doanh thương nghiệp ở cửa hàng phải thực hiện qua 2 bước:

Bước 1: Trích tiền thưởng chung cho cửa hàng;

Bước 2: Cửa hàng xét thưởng cho cá nhân.

Việc trích tiền thưởng chung cho cửa hàng chỉ tiến hành khi cửa hàng đạt 2 điều kiện:

1. Hoàn thành vượt mức kế hoạch lưu chuyển hàng hóa. (hoặc định mức doanh thu về ăn uống, phục vụ);

2. Hoàn thành vượt định mức năng suất lao động bình quân.

Mức trích tiền thưởng chung này nhiều hay ít phụ thuộc vào 2 yếu tố:

- Tốc độ vượt định mức năng suất lao động bình quân của cửa hàng;

- Tính chất khác nhau của các ngành hàng; và được quy định cụ thể như sau:

Đối với các cửa hàng nông sản, thực phẩm và kinh doanh ăn uống công cộng thì cứ 1% vượt định mức năng suất lao động bình quân, đơn vị được trích tiền thưởng bằng 0,6% quỹ lương và cao nhất không được quá 10%.

[...]