BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 06 năm 1960
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THÊM VIỆC THI HÀNH LỆ NGHỈ NHỮNG NGÀY LỄ CHÍNH THỨC,
NGHỈ HÀNG NĂM VÀ NGHỈ PHÉP VỀ VIỆC RIÊNG TRONG KHU VỰC SẢN XUẤT
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi:
|
- Các ông Bộ trưởng các Bộ,
- Các cơ quan ngang Bộ,
- Các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh
- Các Sở, Ty, Phòng Lao động
|
Ngày 28-01-1959 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Nghị định số 28-TTg quy định những ngày lễ chính thức, chế độ nghỉ
hàng năm, nghỉ phép về việc riêng; Liên bộ Nội vụ, Lao động đã ra Thông tư hướng
dẫn thi hành số 14-TT/LB ngày 21-3-1959. Sau đó Bộ Lao động lại có những Công
văn số 719-LĐ ngày 08-6-1959, số 895-LĐ ngày 10-7-1959 giải thích một số điểm để
áp dụng trong khu vực sản xuất.
Qua phản ảnh những mắc mứu của
các ngành, các địa phương, Bộ Lao động, hướng dẫn thêm việc thi hành Nghị định
số 28-TTg ngày 28-1-1959
của Thủ tướng Chính phủ đối với:
- Công nhân viên làm công việc đặc
biệt có hại đến sức khỏe.
- Người học nghề và vật tư.
- Công nhân viên nghỉ việc hoặc
thuyên chuyển công tác.
I. ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN VIÊN LÀM CÔNG VIỆC ĐẶC BIỆT CÓ
HẠI ĐẾN SỨC KHỎE
1. Tiêu chuẩn:
Được coi là công việc đặc biệt
có hại đến sức khỏe, những loại việc phải tiến hành ở trong những điều kiện dưới
đây:
- Thường xuyên tiếp xúc với bụi
độc, chất có hơi độc, hoặc chất dễ làm cho người ta bị nhiễm trùng;
- Làm việc ở nơi có sức ép không
khí cao;
- Làm việc ở nơi nóng quá hoặc lạnh
quá thường xuyên cả năm;
- Thường xuyên làm việc trong buồng
tối;
- Thường xuyên làm việc ở nơi có
tiếng động liên tiếp quá mạnh làm đinh tai nhức óc, ảnh hưởng nhiều đến thần
kinh, thính giác;
- Trực tiếp sử dụng các loại máy
làm cho cơ thể liên tiếp bị rung chuyển mạnh;
- Làm việc khó khăn nặng nhọc, đặc
biệt phải len lỏi ở nơi rừng sâu, núi cao, phải chịu dựng những thiếu thốn về mặt
sinh hoạt tinh thần, vật chất, phải gắng sức nhiều như công nhân thăm dò địa chất,
công nhân lâm khẩn.
Để tránh những mắc mứu khó khăn
trong việc thi hành và để khỏi áp dụng một cách tràn lan, Bộ Lao động ấn định bản
danh sách một số nghề thuộc tiêu chuẩn nghỉ hàng năm 12 ngày lao động có lương.
Bản danh sách này mới ghi được một số nghề, các Bộ, các Ủy ban hành chính địa
phương sẽ căn cứ vào những tiêu chuẩn và căn cứ vào tổ chức sản xuất hiện nay ở
các cơ sở thuộc quyền quản lý, lập thêm danh sách những nghề có hại đến sức khỏe
để thi hành lệ nghỉ hàng năm rồi thống nhất ý kiến với Bộ Lao động trước khi
ban hành.
2. Cách tính ngày nghỉ hàng năm
đối với những người làm công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe:
Theo Nghị định số 28-TTg ngày
28-1-1959 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 14 ngày 21-3-1959 của Liên bộ
Lao động - Nội vụ thì những người làm việc ở hầm lò, ở nơi xa xôi, khí hậu xấu
(khu vực đặc biệt, khu vực 1 và 2) và những người làm công việc có hại đến sức
khỏe thì được nghỉ 12 ngày lao động có lương, nếu đã làm liên tục 1 năm.
a) Trường hợp chuyển hẳn công
tác:
Công nhân viên từ khu vực khác
chuyển hẳn đến làm việc ở khu vực đặc biệt, khu vực 1 và khu vực 2, hoặc từ
công tác bình thường điều động hẳn sang công tác đặc biệt có hại đến sức khỏe
thì không phân biệt thời gian công tác ở nơi mới nhiều hay ít mà chỉ tính cả
nơi cũ và nơi mới làm việc nếu đủ 1 năm liên tục công tác thì đều được nghỉ 12
ngày lao động có lương. Ngược lại nếu từ khu vực đặc biệt, khu vực 1 và khu vực
2 chuyển hẳn về công tác ở khu vực khác hoặc từ công tác đặc biệt hại đến sức
khỏe chuyển đến công tác bình thường thì căn cứ vào thời gian làm việc ở nơi
nào lâu nhất mà xét cho nghỉ 10 ngày hay 12 ngày lao động có lương.
b) Trường hợp không làm thường
xuyên cả năm:
Đối với công nhân viên tuy có
liên tục 12 tháng lao động nhưng không thường xuyên làm công việc hầm lò hoặc
làm công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe nghĩa là một năm chỉ làm công việc
đó trong một thời gian rồi lại phân công làm việc bình thường thì hưởng lệ nghỉ
hàng năm như sau:
- Nếu làm việc ở hầm lò hoặc làm
những công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe dưới 6 tháng, còn những tháng khác
làm công việc bình thường, thì chỉ được hưởng lệ nghỉ 10 ngày lao động có
lương.
- Nếu làm việc liên tục ở hầm lò
hoặc làm những công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe từ 6 tháng trở lên, còn những
tháng khác làm công việc bình thường, thì được hưởng lệ nghỉ 12 ngày lao động
có lương.
Hiện nay chế độ nghỉ hàng năm chỉ
có 2 mức: 10 ngày và 12 ngày cho nên những công nhân viên làm công việc đặc biệt
có hại đến sức khỏe đồng thời lại ở khu vực đặc biệt, khu vực 1, 2, cũng chỉ
nghỉ mức tối đa 12 ngày.
II. ĐỐI VỚI
NGƯỜI HỌC NGHỀ VÀ TẬP SỰ
Những người học nghề, tập sự đủ
một năm lao động liên tục cũng thuộc đối tượng thi hành của Nghị định số 28-TTg
ngày 28-01-1959 của Thủ tướng Chính phủ.
Nếu học nghề có hại đến sức khỏe
đủ 1 năm lao động cũng được nghỉ 12 ngày lao động có lương.
Đặc biệt những người học nghề dưới
18 tuổi, được chiếu cố về điều kiện sức khỏe nên dù không làm những công việc đặc
biệt có hại đến sức khỏe, cũng được nghỉ hàng năm 12 ngày lao động có lương.
III. ĐỐI VỚI
NHỮNG TRƯỜNG HỢP NGHỈ VIỆC HOẶC THUYÊN CHUYỂN CÔNG TÁC CỦA CÔNG NHÂN VIÊN HỢP ĐỒNG,
TẠM TUYỂN
1. Công nhân viên đã làm việc đủ
một năm, rồi nghỉ việc vì hết hạn hợp đồng hay hết việc cũng được hưởng
lệ nghỉ hàng năm.
Trường hợp này, đơn vị sử dụng
phải bố trí cho công nhân đi nghỉ trước khi hết hạn hợp đồng, hoặc hết việc. Nếu
có khó khăn không bố trí nghỉ được thì phải thanh toán bằng tiền.
2. Công nhân viên làm việc chưa
đủ 12 tháng thì hết việc đã được cho nghỉ việc. Sau đó được cơ quan Lao
động giới thiệu đến một đơn vị khác có việc làm trở lại thì thời gian công tác ở
đơn vị cũ không được tính để hưởng chế độ nghỉ hàng năm, vì ở đơn vị cũ làm
chưa đủ 12 tháng đã cho nghỉ việc.
3. Công nhân viên đang làm việc ở
một đơn vị mà được điều động đi nơi khác vì nhu cầu công tác, thì đơn vị
đang sử dụng phải cho hưởng lệ nghỉ hàng năm trước khi người đó đi nhận công
tác mới.
Trường hợp này không nhất thiết
phải làm đủ 1 năm mới được nghỉ hàng năm mà nên căn cứ vào thời gian đã công
tác ở đơn vị để tính số ngày nghỉ. Làm như vậy để tránh phiền phức cho đơn vị mới
phải thanh toán quyền lợi mà công nhân đó được hưởng ở đơn vị cũ. Thí dụ: ông A
đang làm ở công trường B được 6 tháng, sau được điều động sang công tác ở một
xí nghiệp vì có nghề chuyên môn. Trước khi chuyển công tác, công trường B phải
sắp xếp cho ông A nghỉ theo cách tính như sau:
ngày lao động có lương. Sau đó,
khi sang xí nghiệp, ông A phải làm đủ 1 năm mới được hưởng lệ nghỉ hàng năm.
Trên đây Bộ Lao động hướng dẫn thêm một số điểm để thi hành Nghị định số 28-TTg
ngày 28-1-1959 của
Thủ tướng Chính phủ trong khu vực sản xuất. Thời gian thi hành những điểm trong
Thông tư này như sau:
- Mục I và II: Những người làm
công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe, học nghề, tập sự đủ điều kiện và tiêu
chuẩn được nghỉ 12 ngày. Trường hợp năm 1959 chưa được nghỉ (học nghề, tập sự),
mới nghỉ 10 ngày, hoặc không nằm trong tiêu chuẩn nghỉ 12 ngày mà cơ sở đã cho
nghỉ 12 ngày thì nay không đặt vấn đề nghỉ thêm hoặc khấu trừ vào năm 1960.
- Mục III: Để tránh sự phiền phức
cho các cơ sở, chế độ nghỉ hàng năm đối với công nhân viên nghỉ việc hoặc
thuyên chuyển công tác bắt đầu thi hành kể từ ngày ký Thông tư này. Những trường
hợp trước đây không đặt vấn đề điều chỉnh.
Trong quá trình thi hành nếu có
điều gì mắc mứu, mong các Bộ, các Ủy ban hành chính địa phương trao đổi với Bộ
Lao động để cùng giải quyết.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|
DANH SÁCH
NHỮNG NGHỀ ĐƯỢC NGHỈ 12 NGÀY LAO ĐỘNG MỘT NĂM
(Kèm theo Thông tư số 14-LĐ/TT ngày 9-6-1960
của Bộ Lao động)
Dưới đây là một số nghề đặc biệt
có hại đến sức khỏe, các Bộ, các Ủy ban hành chính địa phương sẽ căn cứ vào các
tiêu chuẩn nói trong Thông tư và tình hình tổ chức sản xuất hiện nay ở các cơ sở
thuộc quyền quản lý mà lập thêm danh sách những nghề được nghỉ 12 ngày rồi thống
nhất ý kiến với Bộ Lao động trước khi ban hành.
Công nhân viên đang làm những
nghề ghi trong bản danh sách dưới đây, nếu đủ tiêu chuẩn và những điều kiện như
đã quy định trong Thông tư Liên bộ Nội vụ - Lao động số 14-TT/LB ngày 21-3-1959
và Thông tư của Bộ Lao động số 14-LĐ/TT ngày 9-6-1960 thì được nghỉ hàng năm 12
ngày lao động có lương.
A. Những công việc làm dễ
bị nhiễm độc, nhiễm trùng; chất độc và trùng có thể nhiễm vào cơ thể công nhân
qua bộ máy tiêu hóa, hô hấp hay qua da:
1. Nhiễm độc về hơi, về bụi độc
của các chất khoáng sản và kim loại:
- Làm việc thường xuyên dưới hầm
lò ở các mỏ. Công nhân khai thác ở các mỏ lộ thiên: chì, amiante (cuốc, xúc, đội,
đẩy goòng, chuyên môn đục lỗ mìn).
- Đúc chì; đúc hoặc sửa pơ-lắc ở
ắc-quy.
- Sơn các loại sơn có chất chì,
cạo rỉ sơn cũ có chất chì.
- Sửa các loại dây cáp ngầm bằng
chì.
- Đánh bóng các loại kim khí.
- Mạ kền.
- Bốc vác, đóng gói, tháo xi măng
và phốt phát ở xí nghiệp xi măng, và phốt phát, đóng gói quặng chrome vào bao.
- Nghiền sàng bột đá, đất để làm
đồ sứ, gạch chịu lửa.
- Nghiền a-mi-ăng, kéo sợi
a-mi-ăng, dệt sợi a-mi-ăng.
- Cạo gỉ và sửa chữa trong
tăng-đe (tender).
2. Nhiễm độc về bụi, về hơi của
các hóa chất:
- Hàn điện, hàn xì trong buồng
kín;
- Nấu và điều chế các loại
át-xít;
- Chuyên môn đóng các loại
át-xít vào các bình chứa;
- Sản xuất các loại éther;
- Sản xuất bột kính để làm que
hàn;
- Sản xuất đất đèn;
- Nấu cồn dán gỗ;
- Nhuộm vải dùng các loại thuốc
nhuộm có chất aniline;
- Tán phosphore trắng, đốt diêm
sinh để khử trùng;
- Nấu và sử dụng hắc ín, nhựa rải
đường;
- Sơn các loại có hắc ín;
- Sơn phòng mục;
- Trực tiếp làm than luyện;
- Thường xuyên rót xăng có chất
chì vào các thùng chứa xăng;
- Sửa chữa các bệ hay các thùng
chứa (citerne) xăng dầu;
- Pha chế nhựa có chất benzène;
- Gạt bông ở hầm bông (máy dệt Nam
Định)
3. Công việc dễ bị nhiễm trùng
hay nhiễm độc về các chất hơi hôi thối:
- Đổ thùng phân;
- Hót rác, nạo vét cống rãnh ở
đường phố;
- Làm phân ở các công trường và
các trại chăn nuôi;
- Cọ rửa bể thuộc da;
- Nạo da ở nhà máy thuộc da.
B. Công việc phải thường
xuyên tiến hành trong những điều kiện vật lý không bình thường như khi ép cao, nóng
quá hoặc lạnh quá, làm việc trong buồng tối, làm ở nơi có nhiều tiếng động mạnh
liên tiếp, sử dụng máy làm rung chuyển cơ thể, làm việc trong điều kiện khó
khăn nặng nhọc đặc biệt:
a) Sức ép không khí cao:
- Lặn sâu từ 5 mét trở xuống;
- Làm trong các giếng chìm;
- Làm mố cầu dưới mặt nước.
b) Làm việc ở nơi thường xuyên
nóng quá hoặc lạnh quá:
- Xếp hay dỡ nguyên nhiên liệu
và thành phẩm ở các lò nung khi lò còn quá nóng. ;
- Công nhân sửa chữa trong các
lò nung. ;
- Sửa chữa hay chấm dầu các bệ galet
lò nung;
- Luyện kim: nấu, chọc cửa lò,
chọc xỉ lò, khiêng nước kim loại đổ vào khuôn, đổ nguyên liệu vào lò cao;
- Đốt lò nồi hơi ở tàu thủy (chạy
bằng than đá);
- Thợ máy tàu thủy;
- Sửa chữa các đầu máy nóng,
tháo ống lửa, hộp khói khi nồi hơi còn nóng.
- Làm ở các buồng sấy gỗ (dỡ hay
xếp gỗ khi buồng sấy đang nóng).
- Làm trong các phòng lạnh.
c) Làm việc thường xuyên trong
buồng tối:
- Công nhân rửa phim ảnh;
d) Thường xuyên làm việc ở nơi
có nhiều tiếng động liên tiếp quá mạnh làm đinh tai nhức óc, hoặc rung chuyển
có hại đến cơ thể:
- Trực tiếp sử dụng máy khoan
than, khoan đá (khoan cầm tay).
- Điều khiển máy đập đá, nghiền
đá, điều khiển máy quả gang ở nhà máy xi măng.
- Tán ri-vê, gõ gỉ, tẩy ba-vuya
bằng hơi ép.
e) Làm việc trong điều kiện khó
khăn nặng nhọc đặc biệt, chịu những thiếu thốn về sinh hoạt tinh thần và vật chất
hoặc phải gắng sức quá nhiều:
- Thổi thủy tinh;
- Thăm dò mỏ;
- Điều tra rừng;
- Khảo sát và trắc địa để mở những
tuyến đường mới;
- Công nhân khai thác gỗ trong rừng;
- Phá thác;
- Thường xuyên phải ngâm mình dưới
nước;
- Gạt than (sáng tẩy) ở dưới hầm
tàu;
- Lái và phụ lái máy xúc, xe vận
tải lớn ở các mỏ từ 14 tấn trở lên (xe bò tót, xe gấu, xe tatra);
- Lái và phụ lái các máy cày chạy
bằng xích;
- Điều khiển các máy gạt đất ở
các công trường;
- Mắc và sửa chữa đường dây điện
ở ngoài đường;
- Lái cần trục ở phân xưởng đúc.