Thứ 7, Ngày 26/10/2024

Thông tư 13-TBXH-1978 hướng dẫn thi hành Quyết định 78-CP-1978 bổ sung chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh do Bộ Thương binh và xã hội ban hành

Số hiệu 13-TBXH
Ngày ban hành 15/08/1978
Ngày có hiệu lực 30/08/1978
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Thương binh và Xã hội
Người ký Huỳnh Đắc Hương
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Văn hóa - Xã hội

BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 13-TBXH

Hà Nội, ngày 15 tháng 08 năm 1978

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 78-CP NGÀY 13-4-1978 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BỔ SUNG CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI BỆNH BINH

Ngày 13 tháng 4 năm 1978, Hội đồng chính phủ đã có Quyết định số 78-CP về việc bổ sung chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh.
Sau khi trao đổi thống nhất ý kiến với các ngành có liên quan. Bộ Thương binh xã hội giải thích và hướng dẫn một số điểm sau đây:

I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC BỔ SUNG CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua, do phải trải qua chiến đấu, công tác trong những điều kiện gian khổ, ác liệt kéo dài, nhiều cán bộ, chiến sĩ thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân đã bị ốm đau, sức khoẻ bị giảm sút, phải chuyển ra ngoài quân đội.

Để tạo điều kiện cho anh em ổn định đời sống, thể hiện sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước ta đối với anh em, trước đây Chính phủ đã ban hành một số chính sách đối với bệnh binh. Riêng về chế độ đãi ngộ, thì mới quy định chế độ đối với quân nhân ra ngoài quân đội vì mất sức lao động từ 60% trở lên.

Nay, Hội đồng chính phủ quyết định bổ sung chế độ đãi ngộ đối với quân nhân phải ra ngoài quân đội vì bị mất sức lao động từ 41% đến 59% (dưới đây gọi là bệnh binh). Quyết định này thể hiện đầy đủ hơn nữa sự chăm sóc của Đảng và Chính phủ đối với bệnh binh, tạo điều kiện giúp anh em giải quyết phần nào khó khăn trong đời sống và góp phần động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và nhân dân ta hăng hái phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tham gia xây dựng lượng lượng vũ trang để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC HƯỞNG CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ

Theo Quyết định số 78-CP, thì những quân nhân có đủ điều kiện sau đây, được hưởng chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh:

1. Nhập ngũ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã có đủ 5 năm công tác liên tục, hoặc chưa có đủ 5 năm công tác liên tục, nhưng đã hoạt động ở chiến trường khó khăn gian khổ, hoặc trải qua chiến đấu ác liệt.

2. Vì ốm đau, sau khi đã điều trị, điều dưỡng mà sức khỏe vẫn không hồi phục, bị mất sức lao động từ 41% đến 59% và phải ra ngoài quân đội trong phạm vi thời gian đã được quy định trong Quyết định số 78-CP.

Dưới đây, nói rõ thêm như sau:

a) Quân nhân được hưởng chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh bao gồm cán bộ, chiến sĩ thuộc quân đội nhân dân và thuộc lực lượng công an nhân dân (công an nhân dân vũ trang và an ninh nhân dân, cảnh sát nhân dân theo như quy định tại Quyết định số 47-CP ngày 21/2/1975 của Hội đồng Chính phủ).

b) Được coi là hoạt động ở chiến trường khó khăn gian khổ, những trường hợp sau đây:

- Trong thời kỳ kháng chiến, hoạt động ở các chiến trường B, C, K, hoặc ở những nơi thường xuyên bị địch đánh phá thuộc các tỉnh phía Bắc;

- Sau ngày giải phóng, hoạt động ở các vùng hải đảo, biên giới thường phải chiến đấu chống bọn phản động phá hoại.

Ngoài ra, những trường hợp hoạt động trong thời kỳ kháng chiến hoặc sau ngày giải phóng, ở những nơi (như vùng biên giới, hải đảo xa xôi, rừng hẻo lánh…) do điều kiện sinh hoạt khó khăn thường xuyên quá thiếu thốn, khí hậu ác nghiệt, có nhiều yếu tố phát sinh bệnh mà điều kiện chữa bệnh lại khó khăn và trường hợp phải làm việc thường xuyên ở môi trường độc hại, làm cho sức khỏe của quân nhân bị giảm sút nhiều, thì cũng được coi là hoạt động ở chiến trường khó khăn gian khổ.

c) Được coi là trải qua chiến đấu ác liệt, những trường hợp sau đây:

- Đã tham gia nhiều trận chiến đấu, hoặc một vài trận nhưng ác liệt, rồi do ảnh hưởng của bom đạn địch mà bị bệnh, đi đến mất sức lao động;

- Bị địch bắt tra tấn, khủng bố, tù đày mà vẫn kiên quyết đấu tranh, không chịu khuất phục địch, rồi mắc bệnh, bị mất sức lao động.

d) Trường hợp ốm đau bị mất sức lao động được hưởng chế độ bệnh binh là trường hợp ốm đau do hoạt động trong thời gian tại ngũ. Trường hợp ốm đau, mất sức lao động không phải do hoạt động trong thời gian tại ngũ (như bị bệnh từ ở gia đình trước khi nhập ngũ hoặc sau khi xuất ngũ…) thì không thuộc diện hưởng chế độ bệnh binh.

e) Quân nhân chuyển ra ngoài quân đội được hưởng chế độ bệnh binh là quân nhân chuyển ra ngoài quân đội để về gia đình, trong phạm vi thời gian quy định như sau:

Kể từ ngày ký Quyết định số 78-CP, tức là ngày 13/4/1978 trở về sau, mà:

- Khi xuất ngũ đã được xác định bị mất sức lao động từ 41% đến 59%;

- Hoặc khi xuất ngũ chưa bị mất sức lao động như trên, nhưng còn mắc bệnh và trong thời gian không quá một năm kể từ ngày xuất ngũ, do bệnh cũ tái phát, khám lại sức khỏe, bị mất sức lao động từ 41% trở lên. Trong trường hợp này, muốn được khám lại sức khỏe, quân nhân đã ra ngoài quân đội phải có sự chứng nhận là do bệnh cũ tái phát của y sĩ hoặc bác sĩ của cơ quan y tế nơi cư trú.

Kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến trước ngày ban hành Quyết định số 78-CP (tức ngày 13 tháng 4 năm 1978): để phù hợp với tình hình phục viên quân nhân sau khi chiến tranh đã kết thúc trong cả nước, theo Quyết định số 78-CP thì những quân nhân nhập ngũ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã xuất ngũ từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 (tức là ngày 01 tháng 5 năm 1975) đến trước ngày ban hành Quyết định này (kể cả số đã chuyển về trại thương binh) nếu có đủ điều kiện nói ở điểm 1 và điểm 2 trên đây và từ sau khi xuất ngũ đến nay vẫn giữ vững phẩm chất của người quân nhân cách mạng, thì cũng được xét để hưởng chế độ đãi ngộ đối với bệnh binh. Những trường hợp sau đây được đưa ra Hội đồng giám định y khoa để khám lại sức khỏe và xét giải quyết chế độ bệnh binh:

- Những quân nhân đã được Hội đồng giám định quân y xác định mất sức lao động từ 41% đến 59%, hoặc đã được đơn vị quân đội kết luận trong phiếu sức khỏe loại 4 (gồm loại 4a, 4b1, 4b2) trước khi xuất ngũ, còn đủ giấy tờ gốc hợp lệ;

- Những quân nhân được đơn vị kết luận trong phiếu sức khỏe loại 3, nhưng từ sau khi về địa phương bị bệnh cũ tái phát, đã qua điều trị vẫn không khỏi, sức khỏe bị giảm sút, không lao động được hoặc chỉ lao động được rất ít, có hồ sơ chứng từ của bệnh viện điều trị bệnh cũ tái phát và sự xác nhận của y tế, chính quyền cơ sở nơi cư trú.

[...]