BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
09-TC/VP
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 02 năm 1971
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 50-TTG NGÀY 16-2-1971 CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC NGHIÊM CẤM CÁC QUỸ TRÁI PHÉP TRONG CÁC XÍ NGHIỆP,
CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Thủ tướng Chính phủ vừa ra quyết định số 50-TTg ngày 16 tháng 2 năm 1971 nghiêm cấm các
quỹ trái phép trong các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước. Dưới đây, Bộ Tài chính hướng
dẫn việc chấp hành quyết định nói trên.
I. CÁC QUỸ THUỘC DIỆN NHÀ NƯỚC
NGHIÊM CẤM
1. Các quỹ trái phép là những quỹ
không được một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào luật lệ, chế độ hiện
hành của Nhà nước, chính thức cho phép thành lập.
Đây là những quỹ mà nguồn gốc là
do xâm phạm tài sản của Nhà nước, của tập thể và tài sản riêng của nhân dân. Về
các quỹ trái phép mà nguồn gốc là do xâm phạm tài sản của tập thể, Nhà nước sẽ
có quy định cụ thể sau.
2. Đều coi là quỹ trái phép, các
quỹ lập ra do xâm phạm tài sản của Nhà nước hoặc tài sản riêng của nhân dân,
không kể là xâm phạm bằng cách nào, ví dụ như:
a) Chiếm đoạt tài sản của Nhà nước,
bán đi lấy tiền lập quỹ, như lấy nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, hàng hóa, máy
móc, thiết bị, phế liệu, phế phẩm, bao bì, hàng hóa dôi, thừa, hàng hóa kém phẩm
chất, hàng mẫu, quà biếu, sản phẩm của xưởng trường, sản phẩm của phòng thí
nghiệm, hoa lợi công cộng…
b) Dùng thủ đoạn để moi rút hoặc
bớt xén kinh phí ngân sách của Nhà nước, như bịa đặt ra các khoản chi, quyết
toán khống, giả mạo chứng từ, giấy tờ…
c) Dùng trái phép tài sản của
Nhà nước như dùng phương tiện vận tải, dụng cụ, máy móc… của Nhà nước để kiếm
tiền lập quỹ riêng.
d) Lợi dụng những sơ hở của
chính sách, chế độ quản lý tài chính và vật tư của Nhà nước, hoặc cố ý làm sai
những chính sách, chế độ đã có, để lấy tiền, lấy vật tư lập quỹ, như:
- Giữ lại khoản tiền được Nhà nước
cấp phát nhưng chi không hết, còn thừa lại;
- Giữ lại các khoản thu của Nhà
nước, không nộp vào ngân sách Nhà nước;
- Chiếm dụng, sử dụng nhập nhằng
vốn ngân sách Nhà nước; đem số tiền của tổ chức, và cá nhân ủng hộ Nhà nước (ủng
hộ thương binh, gia đình liệt sĩ…) ra làm vốn kinh doanh để lập quỹ; dùng tiền
của Nhà nước để tạm ứng cho công đoàn cơ quan, xí nghiệp hoặc cho vay mượn để tổ
chức trại chăn nuôi, căng tin….lấy lãi để lập quỹ;
- Giữ lại không nộp trả Nhà nước,
tiền và tài sản của các tổ chức đã giải thể;
- Chiếm dụng số vốn dôi ra do
thay đổi giá dự toán xây dựng cơ bản;
- Lấy tiền của quỹ lương dự trù
cho lao động trong biên chế Nhà nước để trả cho số lao động đã được bố trí
sang các cơ sở kinh doanh riêng của cơ quan, xí nghiệp.
- Tự ý đặt ra chế độ buộc các
đơn vị kinh doanh cấp dưới phải nộp kinh phí cho cấp trên và lấy số tiền đó lập
quỹ riêng;
- Lấy khoản chênh lệch giữa giá
dự toán xây dựng cơ bản trường sở với số tiền trả cho học sinh, sinh viên tham
gia lao động xây dựng trường sở vv…
đ) Xâm phạm tài sản riêng của
nhân dân lấy tiền lập quỹ như:
- Tự ý đặt ra các khoản thu vào
nhân dân ngoài chính sách, chế độ Nhà nước cho phép;
- Bớt xén công lao động, tiền
thù lao của dân công, vv…
3. Tuy ở một số cơ quan, xí nghiệp,
tiền quỹ trái phép được đem dùng công khai hoặc nữa công khai vào những công việc
phúc lợi công cộng (như xây hố xí, giếng nước…), những công việc lợi ích chung
(như xây dựng nhà làm việc của cơ quan...) những công việc phúc lợi tập thể
(như tổ chức trại chăn nuôi để cải thiện bữa ăn cho cán bộ, công nhân, viên chức),
vv…, nhưng vì nguồn gốc của tiền quỹ là do xâm phạm tài sản của Nhà nước hoặc của
nhân dân, nên những quỹ đó cũng coi là quỹ trái phép.
Nghiêm trọng hơn nữa là những
trường hợp lập và sử dụng quỹ một cách giấu giếm, và tiền quỹ đem chi tiêu vào
những công việc không chính đáng, như liên hoan ăn uống, mua sắm linh tinh, cho
vay, cho mượn, trợ cấp, khen thưởng ngoài tiêu chuẩn, chế độ của Nhà nước, trả
lương cho số lao động tuyển ngoài biên chế; chi cho hoạt động của các tổ chức
do mình tự ý đặt ra, vv…..
4. Đều coi là quỹ trái phép, các
quỹ lập ra do xâm phạm tài sản của Nhà nước và tài sản của nhân dân, không kể
là quỹ được lập ra và quản lý với danh nghĩa nào; như:
- Quỹ trái phép có tính chất
chung cho toàn cơ quan, xí nghiệp, hoặc là quỹ riêng của từng đơn vị nhỏ trong
cơ quan, xí nghiệp;
- Quỹ trái phép giao cho các tổ
chức quần chúng trong cơ quan, xí nghiệp quản lý (tổ chức công đoàn, phụ nữ,
thanh niên,vv…).
II. VIỆC KIỂM KÊ TÀI SẢN THUỘC
QUỸ TRÁI PHÉP
Ngay sau khi nhận được quyết định
của Thủ tướng Chính phủ, các đơn vị từ cấp huyện trở lên, hiện đang có quỹ trái
phép, phải tức khắc đình chỉ mọi hoạt động thu chi của quỹ đó ở đơn vị cũng như
ở cơ sở kinh doanh lập ra bằng quỹ trái phép, khoá ngay sổ sách (nếu có) và tổ
chức kiểm kê tài sản thuộc quỹ trái phép. Tiến hành kiểm kê tài sản tốt là biểu
thị ý thức trách nhiệm đối với việc thi hành quyết định của Chính phủ nghiêm cấm
quỹ trái phép.
Việc kiểm kê tài sản này coi như
một cuộc kiểm kê đột xuất, phải được tiến hành theo đúng thể lệ kiểm kê của Nhà
nước; (xem phương án cuộc kiểm kê tài sản 0 giờ ngày 01-01-1969 do Liên Bộ Tài
chính-Tổng cục Thống kê ban hành theo số 885-LB ngày 24-10-1968 và Thông tư số
732-TC/CĐKT của Bộ Tài chính…). Yêu cầu của kiểm kê là nắm chắc số lượng, chất
lượng và giá trị tài sản của từng đơn vị, để làm căn cứ cho việc thu hồi và nộp
vào ngân sách Nhà nước toàn bộ số vốn bằng tiền hiện có thuộc quỹ trái phép, đồng
thời làm căn cứ cho việc quyết định phương hướng xử lý thích hợp đối với các
tài sản đã mua sắm bằng tiền quỹ đó.
Tài sản thuộc quỹ trái phép hiện
có ở các tổ chức kinh doanh riêng (phân xưởng phụ, trại chăn nuôi…), do các cơ
quan, xí nghiệp lập ra, hoặc ở các tổ chức quần chúng trong các cơ
quan, xí nghiệp (công đoàn, thanh niên, phụ nữ…), cũng đều phải kiểm kê.
Đối tượng kiểm kê là toàn bộ tài
sản hiện có, thuộc quỹ trái phép, tức là toàn bộ những tài sản thuộc quỹ riêng
hiện có mà nguồn gốc là do xâm phạm tài sản của Nhà nước và tài sản riêng của
nhân dân, không kể là tài sản đó đang để tại kho, để ở các địa điểm khác, gửi
nhà dân, gửi người khác giữ hộ, tài sản cho thuê, giao gia công chế biến, tài sản
đang vận chuyển trên đường, tài sản cho mượn, tài sản giao cho đơn vị khác sử dụng,
vv…
Tài sản gồm 2 loại: tài sản cố định
và tài sản lưu động (bao gồm cả tiền quỹ và các chứng khoán có giá trị như tiền).
Các chỉ tiêu kiểm kê gồm 2 loại:
chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật. Khi tính giá các hiện vật thì tính theo
giá thực tế nhập kho và theo giá còn lại để phản ảnh được tình hình hiện tại của
loại tài sản kiểm kê.
Thời gian kiểm kê do thủ trưởng
đơn vị quyết định. Việc kiểm kê phải làm khẩn trương để bảo đảm thời hạn do Thủ
tướng Chính phủ quy định.
Về phương pháp kiểm kê: phải xác
định số tài sản thực có bằng cách cân, đo, đong, đếm thực sự. Các đơn vị kiểm
kê phải tuân theo các quy định về kiểm kê nêu trong phương án cuộc kiểm kê 0 giờ
ngày 01-01-1969.
Đối với những khoản phải thanh
toán, phải đối chiếu, xác minh công nợ với từng đơn vị, từng cá nhân có quan hệ
thanh toán, để xác định chính xác tổng số các khoản thanh toán đối với từng đơn
vị, từng cá nhân; ngăn ngừa mọi trường hợp lợi dụng, tham ô tiền, hiện vật thuộc
quỹ trái phép.
Các đơn vị, nhất là các cơ sở
kinh doanh lập bằng quỹ trái phép, cần dựa vào các tổ chức quần chúng: công
đoàn, thanh niên, vv…, để động viên mọi người có liên quan tiến hành kiểm kê.
Ở mỗi đơn vị, cần thành lập ban
kiểm kê tài sản do thủ trưởng đơn vị làm trưởng ban, có các bộ môn kế toán, tài
vụ, thống kê, cung tiêu, và công đoàn tham gia. Không cần thiết thành lập tổ chức
chỉ đạo kiểm kê từ trên xuống dưới. Kế toán trưởng đơn vị có nhiệm vụ giúp thủ
trưởng thi hành tốt quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là trong việc
kiểm kê tài sản.
III. VIỆC NỘP VÀO NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CÁC KHOẢN TIỀN THUỘC QUỸ TRÁI PHÉP.
Phải nộp vào ngân sách Nhà nước,
ngay sau khi kiểm kê xong, mọi khoản tiền thuộc quỹ trái phép do cơ quan quản
lý hoặc do cơ sở kinh doanh trực thuộc (trại chăn nuôi, căng tin,…) quản lý,
bao gồm:
- Tiền mặt hiện có đến ngày kiểm
kê;
- Tiền hiện đang gửi tài khoản
ngân hàng Nhà nước (không kể là ký gửi vào tài khoản nào);
- Tiền đang gửi quỹ tiết kiệm.
Ngoài ra, những khoản tiền mà cơ
quan, xí nghiệp đã cho tập thể hoặc cá nhân vay mượn, hoặc giao cho tập thể,
cho cá nhân sử dụng nhưng chưa dùng hoặc dùng còn thừa, vv… cũng đều phải được
thu về ngay và nộp vào ngân sách Nhà nước.
Các khoản tiền nói trên phải nộp
vào ngân sách Nhà nước theo đúng các thủ tục hiện hành và ghi vào loại V-Thu
khác, khoản 116, hạng 4- các khoản linh tinh, theo mục lục ngân sách Nhà nước hiện
hành.
IV. VIỆC BẢO QUẢN TÀI SẢN, HIỆN
VẬT THUỘC QUỸ TRÁI PHÉP
Các tài sản cố định và tài sản
lưu động đã mua sắm hoặc xây dựng bằng quỹ trái phép, hiện đang dùng hoặc chưa
dùng đến, hoặc đưa cho tập thể hay cá nhân mượn, hoặc đã điều động phân phối
cho đơn vị khác, tài sản để ở cơ quan hay bất kỳ nơi nào khác, đều phải kiểm
kê.
Kiểm kê xong, các đơn vị phải
thu hồi đầy đủ các tài sản đã giao cho cá nhân hoặc tập thể mượn hoặc sử dụng;
trong khi chờ quyết định xử lý tài sản, phải tiếp tục bảo quản chặt chẽ các tài
sản nói trên, ngăn ngừa việc phân tán, cất giấu, chia tay, nhượng bán, đổi
chác, hủy hoại, vv… các tài sản đó.
V. VIỆC XỬ LÝ CÁC TÀI SẢN, HIỆN
VẬT THUỘC QUỸ TRÁI PHÉP
Thủ tướng chính phủ đã quy định
rõ phương hướng xử lý các tài sản, hiện vật thuộc quỹ trái phép và giao trách
nhiệm cho Bộ Tài chính (đối với các ngành ở trung ương) và Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố (đối với địa phương) quyết định việc xử lý từng trường hợp cụ thể.
Đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố hướng dẫn các đơn vị trực thuộc, có tài sản
thuộc quỹ trái phép, liên hệ với cơ quan tài chính cùng cấp để được hướng dẫn
kê khai chi tiết. Thủ trưởng các ngành căn cứ vào phương hướng mà Thủ tướng
Chính phủ đã đề ra, nghiên cứu việc xử lý các tài sản của từng đơn vị trực thuộc
đã kê khai, và gửi đến Bộ Tài chính, hoặc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, đối
với các ngành ở địa phương, đề nghị xử lý đối với từng trường hợp cụ thể.
Sau khi có quyết định của Bộ tài
chính, hoặc của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, sẽ tiến hành giao nhận tài sản
giữa một bên là đơn vị đang giữ tài sản đó, và một bên là đơn vị được nhận
tài sản. Việc bàn giao tài sản này phải theo đúng chế độ, thể lệ hiện hành về
giao nhận, thanh toán, kế toán tài sản.
VI. CHẾ ĐỘ BÁO CÁO
Để Bộ Tài chính tổng hợp và báo
cáo với Chính phủ trước ngày 01 tháng 8 năm 1971 tình hình thi hành quyết định
của Thủ tướng Chính phủ tại các ngành, các địa phương, đề nghị các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố tổng hợp tình hình thi hành quyết
định này trong các đơn vị thuộc ngành, thuộc địa phương và gửi đến Bộ Tài chính
trước ngày 15 tháng 7 năm 1971, theo các mẫu biểu đính kèm(1).
Để bảo đảm việc kê khai quỹ trái
phép được nghiêm chỉnh, các đơn vị cơ sở không có quỹ trái phép cũng phải báo
cáo xác định là đơn vị mình không có, theo mẫu biểu đính kèm.
(1)Không in các biểu mẫu.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|