Thông tư 07-TC-CĐKT-1964 ban hành chế độ chứng từ sổ sách kế toán do Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 07-TC-CĐKT
Ngày ban hành 21/02/1964
Ngày có hiệu lực 21/02/1964
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Trịnh Văn Bính
Lĩnh vực Kế toán - Kiểm toán

BỘ TÀI CHÍNH
******

Số : 07-TC-CĐKT

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc

******

Hà Nội, ngày 21 tháng 02 năm 1964

 

THÔNG TƯ

Chứng từ sổ sách kế toán có ý nghĩa rất lớn trong việc lãnh đạo sản xuất kinh doanh, trong việc quản lý kinh phí ở các cơ quan hành chính sự nghiệp. Nó là công cụ không thể thiếu được để giám đốc và phân tích các hoạt động tinh tế, sử dụng vốn và vật tư; chứng từ sổ sách kế toán có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước. Tổ chức tốt việc lập, luân chuyển, ghi sổ, kiểm tra chứng từ và sổ sách kế toán giúp cho các ngành, các cấp có thể ngăn ngừa các hiện tượng tham ô lãng phí.

Sau khi ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, một số xí nghiệp, công trường, nông trường, cơ quan…đã bắt đầu chấn chỉnh công tác ghi chép chứng từ sổ sách kế toán. Nhưng đi sâu vào một số đơn vị thì thấy tình trạng khá phổ biến là việc tính toán, phản ánh trên các chứng từ sổ sách kế toán còn nhiều thiếu sót. Chứng từ sổ sách kế toán không làm đúng nguyên tắc, không được kiểm soát chặt chẽ, đã mở đường cho nhiều vụ tham ô. Theo tổng kết của một ngành thì 80% số vụ tham ô là do kỷ luật chứng từ không chặt chẽ.

Trong một ngành, mỗi đơn vị kế toán dùng một phương pháp ghi chép riêng, mẫu mực chứng từ sổ sách không thống nhất. Việc quy định mẫu mực, chứng từ sổ sách còn tùy tiện, do đó sinh ra phức tạp, rườm rà, số lượng bản quá nhiều gây lãng phí thời gian và giấy tờ. Việc bảo quản chứng từ sổ sách chưa được chặt chẽ, để mất mát, thất lạc, khó khăn cho việc tra cứu, gây ra sự lợi dụng chứng từ để tham ô.

Nguyên nhân của tình hình trên một phần do các thủ trưởng đơn vị, các kế toán trưởng chưa thấy hết tầm quan trọng của chứng từ sổ sách kế toán, chưa quan tâm hoặc chưa quan tâm đầy đủ đến việc chấn chỉnh, chỉ đạo công việc ghi chép chứng từ sổ sách theo đúng như quy định của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước; các cán bộ ở các môn khác trong đơn vị cũng chưa thấy nhiệm vụ của mình là phải phục vụ tốt cho công việc ghi chép kế toán; mặt khác do chưa có một chế độ quy định những nguyên tắc cụ thể và thống nhất về chứng từ sổ sách kế toán.

Để bổ cứu tình hình trên, Bộ Tài chính quy định chế độ chứng từ sổ sách kế toàn kèm theo đây, nhằm:

- Cụ thể hóa những nguyên tắc về chứng từ sổ sách kế toán nêu trong điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, tạo điều kiện cho các đơn vị kế toán chấp hành được nghiêm chỉnh, thống nhất;

- Đưa công tác lập, ghi chép và bảo quản chứng từ sổ sách kế toán vào chế độ, kỷ luật chặt chẽ nhằm phát huy tác dụng của chứng từ sổ sách kế toán trong việc tăng cường quản lý kinh tế tài chính.

Để thi hành chế độ chứng từ sổ sách kế toán này, Bộ Tài chính đề nghị các ngành, các địa phương:

- Có kế hoạch phổ biến rộng rãi chế độ này đến các đơn vị kế toán;

- Dựa vào chế độ này, quy định các mẫu mực chứng từ sổ sách, cách thức ghi chép thống nhất cho các đơn vị phụ thuộc;

- Tăng cường công tác kiểm tra chứng từ sổ sách kế toán;

- Một số ngành như Ngoại thương, Ngân hàng Nhà nước sẽ cùng với Bộ Tài chính nghiên cứu quy định cụ thể về một số điểm như việc ghi chép ngoại tệ, mẫu mực và cách sử dụng chứng từ sổ sách kế toán bằng máy v .v… cho thích hợp với tình hình đặc điểm của ngành.

 

 

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG




Trịnh Văn Bính

 

CHẾ ĐỘ CHỨNG TỪ VÀ SỔ SÁCH KẾ TOÁN

Phần 1:

NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. – Bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc sử dụng vốn của Nhà nước đều phải ghi chép kế toán. Mỗi khi thành lập một đơn vị kế toán mới (về sản xuất kinh doanh, kiến thiết cơ bản, sự nghiệp hay hành chính), đơn vị mới thành lập phải tổ chức bộ máy kế toán và phải chuẩn bị đầy đủ sổ sách, giấy in cần thiết cho công việc kế toán rồi mới được nhận vốn và bắt đầu công việc chi tiêu.

Điều 2. – Việc lập chứng từ và ghi chép vào sổ sách kế toán phải đảm bảo phản ánh một cách toàn diện, liên tục, chính xác, có hệ thống tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của đơn vị dưới hình thức tiền, hiện vật và thời gian lao động, phải đảm bảo cung cấp đúng đắn và kịp thời những tài liệu cần thiết cho việc lập báo biểu  kế toán, phải tiện cho việc giám đốc các hoạt động kinh tế tài chính, đồng thời hết sức rõ ràng, dễ hiểu, tránh lặt vặt phức tạp.

Điều 3. – Khi lập chứng từ và vào sổ sách kế toán thì nhất thiết phải căn cứ vào quy định của các chế độ, thể lệ kế toán của Nhà nước; mỗi nghiệp vụ kinh tế, mỗi việc sử dụng vốn Nhà nước phải được phản ánh vào tài khoản có liên quan đúng với nội dung đã quy định trong các chế độ.

Điều 4. – Trong việc lập chứng từ và ghi sổ sách kế toán phải lấy “đồng làm đơn vị và ghi đến hào, xu. Ngoại tệ phải quy ra tiền Việt Nam theo giá hối đoái chính thức của Ngân hàng Nhà nước để ghi sổ, đồng thời phải ghi số ngoại tệ trong sổ quỹ.

Điều 5. – Căn vào điều 12 và điều 43 của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước và dựa và chế độ chứng từ sổ sách kế toán này, các đơn vị chủ quản cấp trung ương (Bộ và cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ) có trách nhiệm quy định các mẫu mực chứng từ sổ sách kế toán sản xuất, kinh doanh và cách thức ghi chép thống nhất cho các đơn vị phụ thuộc và phải được Bộ Tài chính đồng ý trước khi ban hành.

Điều 6. – Căn cứ vào điều 11 và điều 54 của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, căn cứ vào các quy định của chế độ chứng từ sổ sách kế toán này và các quy định có liên quan của các chế độ, thể lệ của Nhà nước, các Sở, Ty Tài chính các khu, thành phố, tỉnh giúp Ủy ban hành chính địa phương quy định các mẫu mực chứng từ sổ sách kế toán thích hợp với tình hình đặc điểm của địa phương để áp dụng cho các xí nghiệp địa phương.

Điều 7. – Dưới sự lãnh đạo của thủ trưởng đơn vị, kế toán trưởng vị có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra công việc lập và ghi các chứng từ sổ sách kế toán của các bộ phận có liên quan (như cung tiêu, phân xưởng, kho, quỹ v .v… ) của các đơn vị phụ thuộc, và bảo quản các chứng từ sổ sách và tài sản các tài liệu kế toán khác.

Việc lập chứng từ, kiểm tra chứng từ, ghi sổ, bảo quản các tài liệu kế toán phải có sự phân công rõ ràng trong đơn vị và có người chuyên trách.

Điều 8. – Mỗi khi thay đổi cán bộ trong bộ máy kế toán phải thực hiện việc bàn giao giữa cán bộ cũ và cán bộ mới: cán bộ cũ phải bàn giao cho cán bộ mới tất cả công việc kế toán bao gồm sổ sách, chứng từ kế toán và các tài liệu khác, tình hình vào sổ, các công việc đang giải quyết và chưa giải quyết v .v… theo đúng như quy định trong các điều 10, 35, 36 của điều lệ tổ chức kế toán  Nhà nước.

[...]