BỘ
NỘI VỤ-BỘ TÀI CHÍNH-BỘ TƯ PHÁP-HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 4 năm 1984
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO, TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO,
BỘ NỘI VỤ, BỘ TƯ PHÁP, BỘ TÀI CHÍNH SỐ 03.TT.LB NGÀY 23 THÁNG 4 NĂM 1984 QUY ĐỊNH
CHẾ ĐỘ THU GIỮ, BẢO QUẢN, XỬ LÝ LẬT CHỨNG VÀ TÀI SẢN TẠM GIỮ TRONG CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ
Thu giữ, bảo quản, xử lý vật chứng
và tài sản tạm giữ là vấn đề quan trọng trong tố tụng hình sự. Làm tốt công tác
này là vấn đề nguyên tắc để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án được đúng pháp luật, chính xác, đấu tranh chống tội phạm có kết quả. Đồng
thời đây cũng là một việc cần thiết để bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể,
của công dân và liên quan trực tiếp đến việc giữ gìn phẩm chất của cán bộ.
Tuy nhiên, thời gian qua, trong
khi chưa có Bộ luật tố tụng hình sự , các ngành hưũ trách chưa có quy định chặt
chẽ và thống nhất về vấn đề này, đó cũng là một trong các nguyên nhân mà do đó
nhiều nơi việc thu giữ, bảo quản, xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ có những
hiện tượng vi phạm pháp luật, không những gây trở ngại cho hoạt động tố tụng,
xâm phạm trái phép tài sản của công dân, mà còn phát sinh hiện tượng tiêu cực
trong một số cán bộ các cơ quan công an, Viện kiểm sát, và toà án.
Vì vậy, trong khi chờ đợi xây dựng
Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối
cao, Bộ Nội vụ, Bộ tư pháp và Bộ tài chính ra thông tư quy định chế độ thu giữ,
bảo quản xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ trong các vụ án hình sự như sau:
I. THU GIỮ VẬT
CHỨNG VÀ TÀI SẢN KÊ BIÊN, TẠM GIỮ:
A. THU GIỮ VẬT CHỨNG
1. Vật chứng là những vật dùng
vào việc phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật có liên quan đén hành vi phạm
tội, cũng như tiền bạc hay tài sản khác có được bằng con đường phạm tội. Những
vật đó dùng để phát hiện tội phạm, chứng minh những tình tiết thực tế của tội
phạm.
2. Vật chứng phải được cơ quan
điều tra thu giữ đầy đủ và kịp thời. Khi khám xét thu giữ vật chứng phải theo
đúng thẩm quyền và thủ tục pháp luật quy định.
Cãc vật chứng phát hiện được, thứ
gì cần chụp ảnh thì phải chụp ảnh. Biên bản khám xét thu giữ vật chứng phải ghi
rõ từng thứ vật chứng phát hiện được về: vị trí, số lượng, trọng lượng, phẩm chất,
kích thước, mẫu sắc và cao đặc điểm khác. Vật chứng là tiền mặt thì phải ghi rõ
số lượng các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi thêm là tiền nước nào và trong
trường hợp cần thiết còn phải ghi cả số in trên đồng tiền.
Vật chứng là kim khí quý, đá
quý, thuốc phiện ... thì phải niêm phong trước mặt bị can, bị cáo, hoặc thân
nhân của họ. Niêm phong phải làm cẩn thận và dễ dàng phát hiện dấu vết nếu phẩm
chất niêm phong đã bị mở. Trên niêm phong phải ghi rõ số lượng, phẩm chất và
các đặc điểm khác của các vật có trong niêm phong, có chữ ký của cán bộ thu giữ,
của bị can hoặc thân nhân của họ và của đại diện Uỷ ban nhân dân xã, phường,
niêm phong thứ gì và niêm phong như thế nào phải ghi vào biên bản thu giữ vật
chứng.
Khi khám xét, nếu phát hiện những
thứ Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ thì cũng thu giữ để xét.
3. Thứ gì đem về cơ quan điều
tra, phải ghi rõ trong biên bản. Những thứ không thể đem về cơ quan điều tra được
(cồng kềnh hoặc không thể di chuyển) thì phải mô tả cụ thể trong biên bản và chụp
ảnh rồi giao cho Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc chủ nhà bảo quản vật chứng đó
cho đến khi xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Biên bản khám xét thu giữ
vật chứng làm thành 3 bản: để giao cho người bị khám xét, cơ quan khám xét và
đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp có giao cho Uỷ ban nhân dân xã, phường bảo quản
vật chứng, thì phải lập biên bản giao cho uỷ ban nhân dân xã, phường.
4. Đối với những vật chứng cần phải
có sự xem xét của Nhà chuyên môn để phân biệt thật giả (khi khí quý, đá quý,
thuốc phiện, thuốc chữa bệnh, ngoại tệ ...) hoặc để xác định tính năng, tác dụng
của thứ vật chứng đó (hoá chất, vũ khí ...) thì phải trưng cầu giám định ngay.
Chi phí cho giám định lấy kinh phí nghiệp vụ, không được trích vào vật chứng hoặc
tài sản tạm giữ.
B. KÊ BIÊN, TẠM GIỮ TÀI SẢN
1. Tài sản kê biên, tạm giữ là
tiền bạc, đồ vật của bị can bị cáo và những người liên quan trực tiếp đến tội
phạm, mà các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử kê biên, tạm giữ để bảo đảm việc
bồi thường, tiền nộp phạt khi xử lý, xét xử vụ án.
2. Việc kê biên, tạm giữ tài sản
chỉ được tiến hành trong các trường hợp phạm tội, mà pháp luật quy định bị can,
bị cáo phải bồi thường thiệt hại vật chất quan trọng, phạt một số tiền lớn, tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tài sản kê biên tạm giữ bao gồm:
Tài sản của bị can, bị cáo hiện có trong nhà, trong người, tài sản cho vay mượn,
cho thuê tài sản đưa đi sửa chữa, tài sản gửi hoặc thuê giữ, tiền gửi tiết kiệm
và nhà cửa.
Chỉ kê biên tạm giữ những thứ có
giá trị và trị giá tương ứng với số tiền có thể phải bồi thường hoặc tiền phạt.
Không kê biên, tạm giữ những thứ tối thiểu cần thiết cho cuộc sống và sản xuất
hàng ngày của gia đình bị can, bị cáo, nhất là việc niêm phong nhà phải xem xét
hết sức thận trọng. Vật kỷ niệm, đồ thờ cúng, nói chung không kê biên, tạm giữ,
trừ những thứ có giá trị tương đối lớn.
3. Thứ gì thật cần thiết (vàng
thỏi, vàng lá, tiền mặt ...) mới tạm giữ, những thứ khác sau khi kê biên thì
giao cho người đang quản lý tài sản bảo quản cho đến khi xét xử và bản án đã có
hiệu lực pháp luật. Tài sản tạm giữ là kim khí quý đá quý, thì phải niêm phong
trước mặt người có của hoặc người giao các vật đó. Thể thức niêm phong cũng như
đối với vật chứng.
Khi khám xét kê biên, tạm giữ
tài sản phải làm đúng thủ tục. Biên bản phải ghi rõ ràng, đầy đủ (như với vật
chứng), thứ gì tạm giữ, thứ gì giao cho người đang quản lý tài sản bảo quản
cũng phải ghi vào biên bản. Biên bản phải làm 3 bản giao cho người đang quản lý
tài sản 1 bản, cơ quan kê biên, tạm giữ một bản và 1 bản đưa vào hồ sơ vụ án.
Những tài sản tạm giữ thuộc loại phải giám định thì trưng cầu giám định ngay. Kết
luận giám định về tài sản tạm giữ phải sao gửi cho người quản lý tài sản trước đó
biết.
4. Trong giai đoạn điều tra,
truy tố, các cán bộ cơ quan điều tra và các kiểm sát viên có quyền ra lệnh bắt
người phạm tội thì có quyền ra lệnh khám nhà để kê biên tạm giữ tài sản. Trong
các trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh phải được Viện kiểm sát nhân dân phê
chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Trừ việc khám nhà để kê biên, tạm giữ tài sản
trong các trường hợp phạm tội quả tang, khẩn cấp.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
thì quyền này thuộc về Toà án nhân dân.
II. BẢO QUẢN
VÀ GIAO NHẬN VẬT CHỨNG VÀ TÀI SẢN TẠM GIỮ
1. Vật chứng đã thu đã và tài sản
tạm giữ phải bảo quản chu đáo, có sổ sách ghi chép rõ ràng, đầy đủ, có phương
tiện bảo quản chắc chắn, có chế độ và cán bộ quản lý chặt chẽ, không để hư hỏng,
mất mát. Nghiêm cấm các hành vi lấy cắp, đổi chác, sử dụng, mua bán và phân phối
nội bộ.
Việc thưởng cho những người có
thành tích phát hiện, truy bắt bọn tội phạm, chỉ được giải quyết sau khi vụ án
đã qua xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc đã có quyết định miễn tố
của Viện kiểm sát nhân dân.
2. Nếu vật chứng hoặc tài sản tạm
giữ là hàng tiêu dùng mau hỏng (lương thực, thực phẩm tươi sống, dược phẩm, dược
liệu ...) thì sau khi thu giữ cơ quan điều tra giao ngay cho cửa hàng quốc
doanh chuyên doanh mặt hàng đó. Đơn vị nhận hàng thanh toán tiền cho cơ quan điều
tra theo giá thu mua khuyến khích hiện hành. Cơ quan điều tra gửi tiền vào Ngân
hàng. Chứng từ về việc gửi tiền phải đưa vào hồ sơ vụ án.
Vật chứng thuộc các loại sau đây
thì giao cho các cơ quan có chức năng tạm thời quản lý chờ xử lý.
Kim khí quý, đá quý, tiền mặt (kể
cả ngoại tệ), phải giao ngay cho ngân hàng.
- Thuốc phiện, ma tuý, giao cho
cơ quan chuyên doanh dược liệu đặc sản của tỉnh, thành hoặc trung ương.
- Chất độc, chất có vi trùng,
giao cơ quan y tế
- Vũ khí, chất nổ giao cho cơ
quan công an hoặc cơ quan quân sự
- Việc gửi tiền vào Ngân hàng và
giao vật chứng cho các cơ quan nói trên, cơ quan điều tra thông báo cho Viện kiểm
sát nhân dan và cơ quan tài chính biết.
Khi chuyển giao vật chứng đến
các cơ quan để tạm thời quản lý, nếu xét thấy cần thiết, cơ quan điều tra giữ lại
một phần để làm xét nghiệm, giám định hoặc để chứng minh tội phạm trước phiên
toà. Giữ lại thứ gì, số lượng bao nhiêu, cơ quan điều tra phải ra quyết định và
đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Tài sản tạm giữ cũng phải gửi
ngân hàng ngay đối với kim khí quý, đá quý, tiền mặt.
4. Khi cơ quan điều tra gửi tiền
bán vật chứng thuộc loại mau hỏng, vật chứng là tiền mặt, cũng như tiền mặt thuộc
tài sản tạm giữ vào ngần hàng, phải ghi rõ tiền của vụ án nào tạm giữ chờ xử lý
để khi rút ra được nhanh chóng.
5. Việc giao nhận vật chứng và
tài sản tạm giữ phải kịp thời, đầy đủ và đúng thủ tục như: lập biên bản, có chữ
ký và đóng dấu cơ quan của bên giao nhận, và làm thành nhiều bản để mỗi bên
giao nhận giữ một bản và đưa vào hồ sơ vụ án một bản.
- Trong từng trường hợp cụ thể
còn phải:
- Những vật chứng và tài sản tạm
giữ do cơ quan điều tra trực tiếp thu giữ rồi chuyển giao cho các cơ quan tạm
thời quản lý chờ xử trí (như nói ở điểm - chương II) phải lập biên bản giao vào
từng cơ quan. Biên bản phải ghi rõ từng thứ như biên bản thu giữ và trao gửi
cho cơ quan tài chính biết.
- Trường hợp vụ án đầu cơ, buôn
lậu ... từ các cơ quan h ành chính chuyển sang để truy cứu trách nhiệm hình sự
thì các cơ quan này phải chuyển theo hồ sơ vụ án: biên bản thu giữ vật chứng và
biên bản chuyển giao vật chứng cho các cơ quan tạm thời quản lý chờ xử lý, để
khi xét xử toà án quyết định việc xử lý cả người phạm tội và vật chứng.
Nếu cơ quan hành chính có tạm giữ
tài sản của đương sự, thì phải chuyển theo hồ sơ cả bằng chứng từ và hiện vật.
- Khi giao vật chứng hoặc tài sản
tạm giữ là kim khí quý, đá quý, tiền, ngoại tệ, thuốc phiện ... cho cơ quan
giám định, thì phải lập biên bản mở niêm phong, xác định thì phải lập biên bản
mở niêm phong, xác định niêm phong còn nguyên vẹn hay đã bị mất dấu, thay đổi
và kiểm kê các vật trong niêm phong. Khi mở niêm phong phải có mặt đại diện các
cơ quan giao niêm phong, cơ quan giám định và bị can, bị cáo hoặc người thay mặt
họ và đều ký vào biên bản. Biên bản này sao gửi cho bị can, bị cáo 1 bản.
- Khi cơ quan điều tra chuyển hồ
sơ sang Viện kiểm sát để xử lý, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ sang toà án để xét xử,
trong hồ sơ phải có đầy đủ biên bản thu giữ và các giấy tờ khác có liên quan đến
vật chứng và tài sản kê biên, tạm giữ. Tiền gửi ngân hàng vẫn cứ để ở tài khoản
của cơ quan điều tra.
Đối với vụ án đưa truy tố, xét xử,
thứ gì không thuộc loại phải gửi ngân hàng hoặc giao cho các cơ quan tạm thời
quản lý chờ xử lý, thì phải chuyển giao hiện vật sang toà án. Đối với những vụ
án có nhiều vật chứng và tài sản tạm giữ hoặc các thứ đồ cồng kềnh, phức tạp
thì giao tay ba giữa công an, Viện kiểm sát và Toà án do Viện kiểm sát tổ chức
việc giao nhận sau khi quyết định chuyển hồ sơ sang toà án để xét xử. Chi phí vận
chuyển lấy kinh phí nghiệp vụ, không được trích vào vật chứng hoặc tài sản tạm
giữ. Vật chứng thuộc loại bí mật quốc gia, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà niêm
phong, giao trực tiếp cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án toà án
nhân dân và phải được bảo quản thật chặt chẽ.
Đối với vụ án Viện kiểm sát miễn
tố hoặc định chỉ điều tra, thì vật chứng và tài sản tạm giữ cứ để tại cơ quan
điều tra để giải quyết theo quyết định xử lý của Viện kiểm sát.
- Khi di lý vụ án trong nội bộ từng
ngành công an, Kiểm sát, toà án, di lý từ Viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân
dân sang Viện kiểm sát quân sự, toà án quân sự và ngược lại, trong hồ sơ vụ án
phải có đầy đủ biên bản thu giữ và các giấy tờ khác có liên quan đến vật chứng
và tài sản kê biên, tạm giữ. Còn hiện vật thì trừ những thứ đã gửi ngân hàng hoặc
giao cho các cơ quan tạm thời quản lý chờ xử lý, số còn lại phải chuyển theo hồ
sơ vụ án. Trường hợp khó khăn không chuyển được thì khi bàn giao hồ sơ phải nêu
rõ lý do và phải bảo quản chu đáo những thứ còn để lại, chờ xử lý của nơi tiếp
nhận vụ án.
- Đối với vụ án xét xử phúc thẩm
thì phải chuyển theo hồ sơ vụ án những vật chứng cần thiết cho việc xét xử phúc
thẩm. Những vật còn lại và tài sản tạm giữ không phải chuyển theo hồ sơ nhưng
phải bảo quản chu đáo chò bản án phúc thẩm quyết định.
- Khi giao trả vật chứng cho người
bị chiếm đoạt, cũng như giao trả tài sản cho đương sự, biên bản phải ghi rõ trả
những thứ gì, tình trạng ra sao và đủ hay thiếu, lý do?
- Khi thay đổi cán bộ trực tiếp
quản lý vật chứng và tài sản tạm giữ trong cùng một đơn vị cũng phải lập biên bản
giao nhận, có cán bộ có thẩm quyền chứng kiến.
III. XỬ LÝ VẬT
CHỨNG VÀ TÀI SẢN KÊ BIÊN, TẠM GIỮ
1. Việc xử lý vật chứng trong
các vụ án hình sự phải được ghi trong bản án hình sự và và giải quyết cụ thể
như sau:
- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà
nước, cơ quan xử lý phải trích sao quyết định tịch thu vật chứng gửi cho cơ
quan tài chính cùng cấp biết để tiếp nhận những thứ đó nộp ngân sách nhà nước.
- Huỷ bỏ những thứ không có giá
trị hoặc hoàn toàn không còn sử dụng được. Khi huỷ, cơ quan quyết định việc xử
lý vụ án phải lập biên bản có đại diện các cơ quan đang quản lý vật chứng, Viện
kiểm sát, tài chính chứng kiến.
- Vật chứng là tài sản bị chiếm
đoạt, nếu không cần thiết giữ lại để phục vụ việc xét xử, thì trả cho chủ sở hữu
từ giai đoạn điều tra (cả đối với chủ sở hữu là Nhà nước, công dân ...)
Nếu vật chứng là thứ mau hỏng đã
bán, thì trả lại cho chủ sở hữu số tiền đã bán được. Nếu chủ sở hữu là cơ quan,
xí nghiệp Nhà nước hoặc tổ chức xã hội đã được mua vật tư theo giá cung cấp,
thì chi trả theo giá đó. Số chênh lệch thừa do bán giá cao hơn thì nộp vào ngân
sách nhà nước. nếu tài sản bị chiếm đoạt đã được thanh lý quyết toán rồi thì
toàn bộ số tiền bán được hoặc vật chứng chưa bán, đều nộp vào ngân sách nhà nước.
- Những vật chứng chưa xác định
được chủ sở hữu, thì cơ quan xử lý phải niêm yết công khai. Quá 6 tháng kể từ
ngày niêm yết mà không có người nhận thì nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trường hợp có tranh chấp về quyền
sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết bằng tố tụng dân sự.
Khi bản án đã có hiệu lực pháp
luật thì chấp hành viên quan hệ với cơ quan đã thu giữ vật chứng, cơ quan đang
quản lý vật chứng và cơ quan tài chính để giải quyết vật chứng theo đúng bản
án.
2. Đối với các vụ án miễn tố, Viện
kiểm sát quyết định việc xử lý vật chứng. Viện kiểm sát trao đổi để cơ quan điều
tra b iết và thực hiện theo quyết định ấy. Riêng đối với những vụ đầu cơ, buôn
lậu làm hàng giả, kinh doanh trái phép mà Viện kiểm sát miễn tố, thì Viện kiểm
sát có văn bản trao đổi với cơ quan xử lý về hành chính, để cơ quan này xử lý
theo thẩm quyền những vật chứng đã thu giữ.
3. Trường hợp quyết định tịch
thu vật chứng đã được thi hành nhưng sau phát hiện có sai lầm và đã có quyết định
huỷ, thì cơ quan đã xử lý phải quan hệ với cơ quan tài chính để trích quỹ Nhà
nước bồi thường cho đương sự số tài sản đã bị tịch thu theo giá bán lẻ hiện
hành của Nhà nước.
4. Đối với tài sản đã bị tạm giữ,
nếu bị can, bị cáo đã bồi thường đủ hoặc nộp đủ tiền phạt thì trả lại cho họ.
Riêng đói với kim khí súng, đá quý, ngoại tệ, trước khi quyết định phải thông
báo với ngân hàng xem xét việc thực hiện chế độ quản lý vàng, bạc, ngoại tệ ...
của Nhà nước. Nếu họ không nộp được hoặc nộp chưa đủ, thì cơ quan có nhiệm vụ
thi hành quyết định xử lý quan hệ với cơ quan tạm giữ tài sản đó, tổ chức bán lấy
tiền bồi thường hoặc nộp phạt, còn thừa thì trả lại cho họ. Riêng tài sản có kê
biên nhưng không tạm giữ, thì giao cho bị cáo hoặc gia đình họ bán trong thời hạn
nhất định, nếu quá hạn họ không bán được thì cơ quan thi hành quyết định xử lý
cùng cơ quan đã kê biên tài sản tổ chức bán lấy tiền bồi thường hoặc nộp phạt.
5. Việc bán vật chứng tịch thu
hoặc tài sản tạm giữ phải có Hội đồng định giá và bán công khai (Bộ tư pháp,
Toà án nhân dân tối cao và Bộ tài chính sẽ có hướng dẫn về vấn đề này).
6. Khi có khiếu nại về việc mất
mát, hư hỏng, đổi chác vật chứng hoặc tài sản tạm giữ, thì trong thời hạn 2
tháng. Thủ trưởng cơ quan tạm giữ những thứ đó phải giải quyết và trả lời cho
đương sự, đồng thời gửi cho cơ quan xử lý và Viện kiểm sát nhân dân biết. Nếu
có sự khiếu nại của người bị tịch thu oan về bồi thường chưa thoả đáng, thì
trong thời hạn 2 tháng, cơ quan đã có quyết định tịch thu sai phải cùng với cơ
quan tài chính giải quyết và trả lời cho đương sự, đồng gửi cho Viện kiểm sát
nhân dân biết.
7. Việc xử lý vật chứng trong
các vụ án trốn đi nước ngoài, thì theo hướng dẫn trong thông tư liên ngành số
03 ngày 25/12/1982.
IV. KỶ LUẬT
Thủ trưởng các cơ quan có nhiệm
vụ thu giữ, bảo quản xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ phải thường xuyên kiểm
tra công tác này. Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm sát việc này một cách chặt
chẽ. Nếu để xảy ra mất mát, đổi chác, thì cơ quan quản lý những thứ đó phải bồi
thường, rồi sau đó bắt cán bộ có trách nhiệm trực tiếp phải bồi thường lại cho
cơ quan theo trách nhiệm vật chất hoặc trách nhiệm dân sự. Đối với vật chứng hoặc
tài sản tạm giữ bị hư hỏng do thiếu trách nhiệm trong việc bảo quản hoặc do tự
tiện sử dụng làm hỏng cũng phải bồi thường.
Cán bộ nào vi phạm những quy định
trong thông tư này thì ngoài việc bồi thường còn tuỳ theo lỗi nhẹ, nặng mà phải
chịu kỷ luật hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký.
Các ngành công an, kiểm sát, toà
án, tư pháp, tài chính tuỳ theo chức năng của từng ngành mà có hướng dẫn thêm
và tổ chức cho cán bộ trong ngành từ trung ương đến cơ sở nghiên cứu nắm vững
và thi hành đúng.
Trong khi thực hiện có gì vướng
mắc thì kịp thời báo cáo cho cấp trên trong ngành rõ.
Lê
Bá Thuỷ
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Quốc Hồng
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Thị Ngọc Khanh
(Đã
ký)
|