BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-NV
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 02 năm 1968
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 163-CP NGÀY
11/11/1967 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC SỬA ĐỔI CHẾ ĐỘ TIỀN TUẤT ĐỐI VỚI GIA
ĐÌNH CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC VÀ QUÂN NHÂN CHẾT
Ngày 11/11/1967, Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 163-CP cải tiến chế độ tiền tuất nhằm bảo đảm hơn
nữa đời sống của gia đình công nhân, viên chức, quân nhân đã chết và góp phần động
viên công nhân, viên chức và quân nhân phấn khởi sản xuất, công tác và chiến đấu.
Sau khi đã trao đổi ý kiến với
các Bộ, các ngành có liên quan, Bộ Nội vụ giải thích và hướng dẫn thi hành Nghị
định nói trên như sau:
I. NỘI DUNG
NHỮNG ĐIỂM SỬA ĐỔI
A. Tiền tuất
đối với công nhân, viên chức
1. Quân nhân
chết vì ốm đau, vì tai nạn lao động
a) Điều kiện được hưởng tiền tuất: Theo điều 58 của điều lệ
tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước
thì khi công nhân, viên chức Nhà nước chết nếu đã có đủ 5 năm công tác liên tục
và tổng số thu nhập của gia đình bị sút từ 60% trở lên thì thân nhân mà người
đó khi còn sống phải nuôi nấng được hưởng tiền tuất hàng tháng.
Nay nghị định số 163-CP quy định
thêm là nếu bình quân thu nhập của gia đình thấp thuộc diện trợ cấp khó khăn của
Nhà nước thì thân nhân cũng được hưởng tiền tuất hàng tháng. Điểm quy định bổ
sung này nhằm giải quyết những trường hợp hai vợ chồng đều là công nhân, viên
chức lương thấp, có nhiều thân nhân phải nuôi nấng, sau khi một người chết đi,
tổng số thu nhập của gia đình tuy chưa sụt tới 60%, nhưng trên thực tế gia đình
có nhiều khó khăn trong đời sống.
b) Mức trợ cấp tiền tuất: Mức trợ
cấp tiền tuất quy định ở điều 58 của điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã
hội là 9 đồng nếu có một người phải nuôi nấng; 16đ nếu có 2 người phải nuôi nấng;
21đ nếu có 3 người phải nuôi nấng; 24đ nếu có từ 4 người trở lên phải nuôi nấng.
Nay sửa lại là mỗi thân nhân được trợ cấp hàng tháng 9đ và không hạn chế số người
được hưởng, nhưng tổng số tiền tuất của gia đình không được quá tiền lương chính
của công nhân, viên chức khi còn tại chức.
Đối với công nhân, viên chức đã
về hưu, hoặc bị tai nạn lao động phải thôi việc rồi chết, nếu có đủ điều kiện
được hưởng tiền tuất như đã nói trên thì tổng số tiền tuất không được quá tiền
trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp thương tật khi còn sống.
Thí dụ: Một viên chức lương
chính 45đ có trên 10 năm công tác liên tục, sau khi chết có 5 thân nhân phải
nuôi nấng, tiền tuất hàng tháng được tính như sau: 9đ x 5 = 45đ00
- Vì người này lương chính trên
40đ nên gia đình còn được hưởng 5% của phần tiền lương cao hơn 40đ tức là: x
(45đ – 40đ) = 0đ25
- Vì người này đã có trên 10 năm
công tác liên tục nên gia đình còn được hưởng thêm 10% của 2 khoản trên cộng lại,
tức là: x (45đ + 0đ25) = 4đ525
Tổng số tiền tuất sẽ là: 49đ775
Nếu người này chết vì tai nạn
lao động thì gia đình còn được thêm 10% của 3 khoản trên cộng lại, tức
là: x (45đ + 0đ25 + 4đ525) = 4đ98
Như vậy tổng số tiền tuất hàng
tháng sẽ là: 54đ755
Nhưng vì lương chính của người
đó có 45đ nên tổng số tiền tuất hàng tháng của gia đình cũng chỉ được lĩnh bằng
45đ.
Một viên chức khác đã về hưu, trợ
cấp hưu trí hàng tháng là 40đ. Sau khi chết có 5 người phải nuôi nấng, tiền tuất
hàng tháng sẽ là: 9đ x 5 = 45đ
- Vì mức trợ cấp hưu trí vừa
đúng 40đ nên không có thêm 5% của phần tiền trợ cấp cao hơn 40đ.
- Vì người nay đã có trên 10 năm
công tác liên tục nên gia đình còn được hưởng thêm 10% của số tiền nói trên, tức
là: x 45đ = 4đ50
Như vậy tổng số tiền tuất của
gia đình sẽ là: 49đ50.
Nhưng vì mức trợ cấp hưu trí của
người đó là 40đ nên tổng số tiền tuất hàng tháng của gia đình cũng chỉ được
tính bằng 40đ.
Trường hợp công nhân, viên chức
Nhà nước bị tai nạn lao động phải thôi việc và được hưởng trợ cấp thương tật
sau khi chết thì tiền tuất cũng tính như trên.
c) Thân nhân được hưởng tiền tuất:
Theo điều 59 của điều lệ tạm thời
về các chế độ bảo hiểm xã hội thì "thân nhân của công nhân, viên chức Nhà
nước chết được hưởng tiền tuất phải là những người không có sức lao động bao gồm
cả những người dưới 16 tuổi (nếu còn đang đi học thì đến hết 18 tuổi) mà trước
khi chết người công nhân, viên chức phải nuôi nấng.
Những người nói trên đây được hưởng
tiền tuất cho tới khi có đủ khả năng tự giải quyết được đời sống hay có người đảm
nhận nuôi nấng hoặc tới khi chết".
Nhưng trong khi tiến hành, nhiều
nơi đã áp dụng không đúng điều quy định trên nên đã mở rộng diện trợ cấp.
Nay giải thích thêm như sau:
Những thân nhân thuộc diện được
hưởng tiền tuất hàng tháng là: vợ, con (kể cả con mà khi công nhân, viên chức
chết vợ đang có thai chưa đẻ), cha mẹ đẻ không có sức lao động mà công nhân,
viên chức khi còn sống phải nuôi nấng nay không có nơi nương tựa.
Đối với những thân nhân khác như
ông bà, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, em ruột… thì cần xét kỹ từng trường hợp cụ thể,
chỉ những người trước đây đã được công nhân, viên chức khi còn sống thực sự
nuôi nấng và nay không còn nơi nương tựa nào khác thì mới được trợ cấp tiền tuất.
Những thân nhân nói trên phải là
những người không có sức lao động, cụ thể là:
- Những người đã quá tuổi lao động
(nam từ 60 tuổi trở lên, nừ từ 55 tuổi trở lên);
- Những người ốm đau tàng tật
không còn khả năng lao động (bị bệnh liệt, hỏng cả 2 mắt, v.v.);
- Trẻ em chưa đến tuổi lao động
(từ 16 tuổi trở xuống, nếu còn đi học thì đến hết 18 tuổi).
Những thân nhân đã được hưởng một
khoản trợ cấp của Nhà nước cao hơn tiền tuất (trợ cấp hưu trí, trợ cấp mất sức
lao động, trợ cấp thương tật, học bổng…) thì không được hưởng tiền tuất nữa.
Cần hết sức tránh việc xét cấp
tiền tuất tràn lan không đúng chính sách như trợ cấp cho những thân nhân mà khi
còn sống người công nhân, viên chức không thực sự phải nuôi nấng, hoặc đã có
nơi nương tựa khi người công nhân, viên chức chết.
2. Công
nhân, viên chức chết được xác nhận là liệt sĩ
Nghị định số 163-CP của Hội đồng
Chính phủ bổ sung điều 58 của điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối
với công nhân, viên chức đã quy định: Công nhân, viên chức chết được xác nhận
là liệt sĩ, mỗi thân nhân được trợ cấp tiền tuất hàng tháng 10 đồng mà không hạn
chế tổng số tiền tuất như trường hợp công nhân, viên chức chết không phải là liệt
sĩ.
Thí dụ: Một viên chức chết được
xác nhận là liệt sĩ lương chính 56đ có trên 10 năm công tác liên tục. Sau khi
chết có 1 mẹ già và 5 con nhỏ phải nuôi nấng thì tiền tuất hàng tháng tính như
sau: 10đ x 6 = 60đ.
- Vì lương chính của liệt sĩ cao
hơn 40đ nên gia đình còn được hưởng thêm 5% của phần tiền lương cao hơn 40đ, tức
là: x (56đ – 40đ) = 0đ80
- Vì liệt sĩ đã có trên 10 năm
công tác liên tục nên gia đình được hưởng thêm 10% của 2 khoản trên cộng
lại, tức là: x (60đ + 0đ80) = 6đ08
Ngoài ra gia đình còn được hưởng
khoản trợ cấp ưu đãi đối với liệt sĩ bằng 10% của 3 khoản trên cộng lại, tức
là: x (60đ + 0đ80 + 6đ08) = 6đ68.
Tổng số tiền tuất của gia đình sẽ
là… 73đ56
Hàng tháng gia đình vẫn được
lĩnh đủ 73đ56 (không phải rút xuống bằng tiền lương chính 56đ).
Về điều kiện được hưởng tiền tuất
của công nhân, viên chức chết được xác nhận là liệt sĩ, Thông tư liên Bộ Nội vụ
- Tổng công đoàn Việt Nam số 02-TT/LB ngày 12/01/1966 đã hướng dẫn và giải
thích tại điểm C, nay vẫn giữ nguyên như cũ.
B. Tiền tuất
đối với quân nhân.
1. Quân
nhân chết vì ốm đau, vì tai nạn trong tập luyện, trong công tác, trong học tập,
trong lao động xây dựng và sản xuất
Theo quy định của điều 45 (khoản
1) của điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân thì những quân nhân chết
vì ốm đau, vì tai nạn trong tập luyện, trong công tác, trong học tập, trong lao
động xây dựng và sản xuất, nếu có đủ điều kiện được hưởng tiền tuất thì gia
đình có 1 người phải nuôi nấng được trợ cấp hàng tháng 9đ; 2 người 16đ; 3 người
21đ; 4 người trở lên 24đ.
Nay Nghị định số 163-CP của Hội
đồng Chính phủ đã sửa điều 45 (khoản 1) nói trên như sau:
Mỗi thân nhân được trợ cấp hàng
tháng 9đ, không hạn chế số người. Nhưng nếu gia đình có nhiều người được trợ cấp
thì tổng số tiền tuất của gia đình không được quá tiền lương chính của quân
nhân khi còn tại ngũ.
Đối với quân nhân đã về hưu,
thương binh đã về gia đình hoặc vào nhà an dưỡng, vào trại thương binh mà chết,
nếu có đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng thì tổng số tiền tuất không được
quá tiền trợ cấp hưu trí hay trợ cấp thương tật của quân nhân đó khi còn sống.
Cách tính trợ cấp tiền tuất đối
với quân nhân chết cũng giống như cách tính trợ cấp tiền tuất đối với công
nhân, viên chức chết đã hướng dẫn ở phần trên.
2. Quân
nhân chết được xác nhận là liệt sĩ
Về chế độ tiền tuất đối với quân
nhân chết được xác nhận là liệt sĩ, điều 45 (khoản 1) của điều lệ tạm thời về
các chế độ đãi ngộ quân nhân đã được Nghị định số 163-CP của Hội đồng Chính phủ
sửa lại là:
Mỗi thân nhân được trợ cấp hàng
tháng 10 đồng, không hạn chế tổng số tiền trợ cấp tuất.
Cách tính tiền tuất đối với quân
nhân chết được xác nhận là liệt sĩ cũng giống như cách tiền tuất đối với công
nhân, viên chức chết đã được xác nhận là liệt sĩ như đã hướng dẫn ở phần trên.
Những công nhân, viên chức chết
vì tai nạn lao động dù chưa có đủ 5 năm công tác liên tục, nếu để lại con mồ
côi cha lẫn mẹ thì các cháu đó cũng được hưởng tiền tuất hàng tháng theo quy định
này.
Quy định này cũng áp dụng cho cả
con mồ côi cả cha lẫn mẹ của quân nhân dự bị, dân quân tự vệ (không phải là
công nhân, viên chức), cán bộ xã, dân công phục vụ các chiến trường quan trọng
và thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước hy sinh trong chiến đấu mà được xác
nhận là liệt sĩ như đã nói ở phần trên.
Những con mồ côi của nam công
nhân, viên chức hoặc quân nhân chết đã được hưởng tiền tuất hàng tháng, sau một
thời gian người mẹ lại chết nốt thì kể từ ngày người mẹ chết, các cháu cũng được
trợ cấp hàng tháng mỗi cháu 12đ nếu ở nông thôn, hoặc 15đ nếu ở nội thành Hà Nội
hay Hải Phòng; trường hợp người mẹ đi lấy chồng khác, để con lại cho thân nhân
của chồng cũ nuôi thì cũng giải quyết như vậy.
Tiền tuất trên đây sẽ do người đảm
nhận nuôi nấng các cháu đứng tên lĩnh.
II. THỦ TỤC THI HÀNH
Chế độ tiền tuất mới được sửa đổi thể hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với gia đình liệt sĩ, quân nhân và công nhân,
viên chức chết. Việc thi hành các chế độ tiền tuất mới không những có tác dụng
làm giảm bớt khó khăn trong đời sống của gia đình liệt sĩ, gia đình quân nhân
và công nhân, viên chức đã chết mà còn làm cho những quân nhân tại ngũ, những
công nhân, viên chức tại chức yên tâm, phấn khởi công tác, sản xuất và chiến đấu.
Vì vậy, mỗi khi có quân nhân hoặc
công nhân, viên chức chết, các Bộ, các ngành ở trung ương và các Ủy ban hành
chính khu, thành, tỉnh, cần quan tâm giải quyết chế độ tiền tuất cho nhanh
chóng, kịp thời bảo đảm quyền lợi cho gia đình người chết.
Từ nay, sau khi một quân nhân hoặc
công nhân, viên chức chết, đơn vị quân đội hoặc cơ quan, xí nghiệp có người chết
cần lập ngay hồ sơ cần thiết theo quy định hiện hành và gửi cho Bộ Nội vụ (nếu
người chết công tác ở các đơn vị quân đội, hoặc các Bộ, các ngành ở trung ương)
hoặc Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh (nếu người chết công tác ở các đơn vị
quân đội, các cơ quan, xí nghiệp của địa phương). Sau khi đã nhận được hồ sơ hợp
lệ thì chậm nhất trong vòng một tháng, ngoài khoản trợ cấp chôn cất (đối với
công nhân, viên chức Nhà nước), Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh cần giải quyết
cho gia đình người chết được lĩnh khoản trợ cấp lần đầu (nếu xét người chết
không đủ điều kiện được hưởng tiền tuất hàng tháng thì trợ cấp một lần); và
trong vòng hai tháng Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần ra quyết định cho gia
đình được hưởng tiền tuất hàng tháng.
Nếu người chết công tác ở các Bộ,
các ngành ở trung ương hoặc các đơn vị quân đội trực thuộc Bộ Quốc phòng thì Bộ
Nội vụ sẽ cấp phát khoản trợ cấp lần đầu rồi chuyển hồ sơ về Ủy ban hành chính
tỉnh, thành nơi thân nhân người chết cư trú để xét cho hưởng tiền tuất hàng
tháng. Nếu người chết không đủ điều kiện được hưởng tiền tuất hàng tháng, thì Bộ
Nội vụ cấp phát khoản trợ cấp một lần.
Trường hợp thân nhân người chết
cư trú ở tỉnh, thành khác thì Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh, hoặc cơ quan,
xí nghiệp, đơn vị quân đội có người chết cần chuyển gấp hồ sơ về địa phương đó
để chậm nhất trong vòng một tháng (kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ), Ủy ban
hành chính tỉnh, thành (nơi thân nhân người chết cư trú) xét và ra quyết định
cho được hưởng tiền tuất hàng tháng. Sau khi đã ký quyết định, Ủy ban cần phát
ngay trợ cấp và gửi hồ sơ về Bộ Nội vụ để Bộ cấp sổ tuất.
Trong khi chờ đợi sổ chính thức
của Bộ thì Ủy ban cần cấp ngay "phiếu lĩnh trợ cấp tạm thời", cho gia
đình đương sự đi lĩnh trợ cấp như đã hướng dẫn tại Thông tư số 254-TT/LB ngày
10/11/1967 của Liên Bộ Nội vụ, Quốc phòng, Công an. Riêng việc trả tiền truy
lĩnh thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần lập dự trù báo cáo về Bộ để Bộ cấp
phát.
Để tiến hành việc này cho tốt
các Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh cần triệu tập một cuộc họp gồm các cơ
quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội, Ủy ban hành chính huyện, khu phố, thị xã thuộc
địa phương để phổ biến chính sách tiền tuất mới được sửa đổi và hướng dẫn thủ tục
tiến hành, cách thức lập hồ sơ cần thiết để các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị
nói trên về làm cho đúng và nhanh gọn.
Đối với những gia đình công
nhân, viên chức và quân nhân chết đã được hưởng tiền tuất từ ngày 31/12/1967 trở
về trước và đã được Bộ cấp sổ trợ cấp hàng tháng thì Ủy ban hành chính tỉnh,
thành cần kiểm tra lại để ra quyết định cho những gia đình đó được hưởng tiền
tuất theo quy định mới kể từ ngày 01/01/1968.
Cụ thể là:
1. Những gia đình đã được Bộ cấp
sổ tuất và đã hưởng tiền tuất (kể cả tuất liệt sĩ) nay cần phải khai lại danh
sách thân nhân phải nuôi nấng (theo mẫu đính kèm)[1], có Ủy ban hành chính
xã, khu phố chứng nhận để Ủy ban hành chính tỉnh, thành đối chiếu với hồ sơ cũ,
xét kỹ lại xem những thân nhân đó có thuộc diện được trợ cấp không và ra quyết
định điều chỉnh tiền tuất hàng tháng; đồng thời Ủy ban cần chữa lại số tiền tuất
ghi trong sổ trợ cấp và cấp phát ngay tiền tuất theo quy định mới kể từ quý I
năm 1968 rồi gửi các bản sao quyết định điều chỉnh tiền tuất kèm theo bản khai
danh sách thân nhân phải nuôi nấng của từng hồ sơ trợ cấp tuất về Bộ để theo
dõi và lưu hồ sơ của Bộ.
Riêng đối với những sổ trợ cấp
tuất có từ 4 người trở xuống được hưởng tiền tuất, mà hồ sơ mới lập trong năm
1967 thì nay không cần phải khai lại danh sách thân nhân nữa.
2. Những gia đình công nhân,
viên chức chết từ trước ngày 31/12/1967 không được trợ cấp tiền tuất hàng
tháng, vì tổng số thu nhập của gia đình không sụt tới 60%, nhưng hiện nay đời sống
thực sự vẫn còn khó khăn, thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần báo cáo từng
trường hợp cụ thể, kèm theo hồ sơ cũ và giấy chứng nhận tình trạng gia đình hiện
nay của Ủy ban hành chính xã hoặc khu phố để Bộ xét. Nếu được Bộ thỏa thuận thì
Ủy ban hành chính tỉnh, thành sẽ ra quyết định cho những gia đình đó được hưởng
tiền tuất theo quy định mới kể từ ngày 01/01/1968.
3. Những công nhân, viên chức và
quân nhân chết từ ngày 31/12/1967 trở về trước nhưng cơ quan, xí nghiệp, đơn vị
chưa lập xong hồ sơ cần thiết thì nay cần tiến hành khẩn trương việc lập hồ sơ
như thể thức hiện hành để Ủy ban hành chính tỉnh, thành kịp thời giải quyết cho
gia đình được hưởng tiền tuất theo quy định cũ từ ngày đương sự chết (kể cả tuất
liệt sĩ) cho đến ngày 31/12/1967 còn từ ngày 01/01/1968 trở đi sẽ được chuyển
sang hưởng tiền tuất theo quy định mới.
Đối với những quân nhân (kể cả
những quân nhân là liệt sĩ) chết trong khoảng từ ngày 01/01/1962 đến ngày thi
hành điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân (03/10/1964), theo điều
51 của điều lệ, nếu đủ điều kiện được hưởng tiền tuất hàng tháng mà đến nay Ủy
ban hành chính tỉnh, thành vẫn chưa giải quyết cho hưởng tiền tuất theo quy định
cũ thì nay cần tập trung giải quyết nhanh, gọn; việc truy lĩnh cho các gia đình
này cần chú ý là chỉ tính từ ngày 01/10/1964 (hoặc từ ngày đương sự chết, nếu
chết sau ngày 01/10/1964) đến ngày 31/12/1967 theo quy định cũ và từ ngày
01/01/1968 trở đi sẽ được hưởng tiền tuất theo quy định mới.
Trong khi chờ đợi Bộ cấp phát sổ
trợ cấp và tiền truy lĩnh thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần cấp phát ngay
tiền tuất hàng quý cho gia đình kể từ ngày Ủy ban ra quyết định, đồng thời cấp
ngay "phiếu lĩnh trợ cấp tạm thời".
4. Đối với những công nhân, viên
chức, và quân nhân về hưu hoặc hưởng trợ cấp thương tật rồi chết, gia đình đã
được hưởng tiền tuất từ trước ngày 31/12/1967, nếu tiền tuất cao hơn tiền trợ cấp
hưu trí hoặc trợ cấp thương tật khi đương sự còn sống thì nay vẫn được bảo lưu,
không tính toán lại nữa.
Thí dụ: Một công nhân về hưu, hưởng
trợ cấp hưu trí hàng tháng 22đ sau khi chết gia đình đã được hưởng tiền tuất
hàng tháng 25đ thì nay vẫn giữ nguyên tiền tuất cũ (25đ).
5. Về cách tính thu nhập của gia
đình để hưởng tiền tuất thì vẫn áp dụng như đã hướng dẫn tại thông tư số 10-NV
ngày 03/6/1967 của Bộ Nội vụ.
Trong dịp này Ủy ban hành chính
tỉnh, thành cần soát lại toàn bộ hồ sơ tiền tuất trước đây để kiểm tra lại xem
nếu có những thân nhân không thuộc diện được hưởng tiền tuất như con đã quá tuổi
hoặc chưa quá tuổi nhưng đã đi làm có lương, đi học có học bổng, cha mẹ già đã
chết hoặc đã có người khác đảm nhận nuôi nấng, và những người không đủ điều kiện
được hưởng tiền tuất nhưng bấy lâu nay đã giải quyết không đúng như: em, cháu,
bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, ông, bà, chú, bác v.v… thì nay cần điều chỉnh lại cho
đúng chính sách.
Ngược lại nếu có những người đủ điều
kiện hưởng tiền tuất nhưng trước đây chưa cho hưởng thì nay cũng cần báo cáo để
Bộ xét và có ý kiến cho giải quyết lại.
Đến ngày 30/6/1968 Ủy ban hành
chính tỉnh, thành cần giải quyết cho xong những việc sau đây:
1. Điều chỉnh xong những hồ sơ
và sổ trợ cấp tuất đã cấp trước ngày 31/12/1967 cho chuyển sang hưởng lương trợ
cấp theo quy định mới (kể cả tuất liệt sĩ) đồng thời gửi về Bộ những bản sao
quyết định điều chỉnh tiền tuất và danh sách thân nhân được hưởng tiền tuất có
chứng nhận của Ủy ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố.
2. Giải quyết cho xong những trường
hợp công nhân, viên chức chết từ ngày 31/12/1967 trở về trước mà tới nay gia
đình vẫn chức được hưởng tiền tuất theo quy định cũ để kịp chuyển sang chế độ
tuất mới từ ngày 01/01/1968.
3. Riêng đối với quân nhân chết
trong khoảng từ ngày 01/01/1962 đến ngày 03/10/1964 có đủ điều kiện được hưởng
tiền tuất như đã quy định ở điều 51 của điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ
quân nhân nhưng chưa được hưởng tiền tuất theo quy định cũ thì đến ngày
30/9/1968 Ủy ban hành chính tỉnh, thành cần giải quyết cho xong.
Trong khi thi hành, nếu gặp khó
khăn trở ngại gì, đề nghị các Bộ, các cơ quan, đoàn thể trung ương và các Ủy
ban hành chính khu, thành, tỉnh phản ánh kịp thời cho Bộ Nội vụ biết để góp ý
kiến giải quyết.
Những quy định trước đây trái với
Nghị định số 163-CP và thông tư này đều bãi bỏ.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Lê Tất Đắc
|