THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-TTg/TT
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 1 năm 1957
|
THÔNG TƯ
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 01-TTG/TT NGÀY 1-1-1957 VỀ VIỆC
TIẾN HÀNH CÔNG TÁC XÉT TRẢ LẠI TỰ DO CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ OAN TRONG BƯỚC 3
Kính
gửi: Uỷ ban hành chính các liên khu, khu, thành phố và các tỉnh
Trong bước 3 sắp tới, số người
phải xét trả lại tự do cũng còn nhiều; trong số này có một số người ở bước 1và
bước 2 còn sót lại.
Những người cần xét trong bước
3, thành phần rất phức tạp: đa số là địa chủ, có người có tội trước Cách mạng
Tháng Tám, có người làm ngụy quân, ngụy quyền, có tội ác trong thời gian kháng
chiến bị kết án về tội hình và hộ.
Do tính chất phức tạp như trên,
nên việc xét trả lại tự do trong bước 3 sẽ có nhiều khó khăn, cần nắm vững
phương châm không tha lầm một kẻ có tội và không giữ lại một người bị oan và phải
tiến hành một cách thận trọng. Cần nhận thức rõ nếu tha lầm người có tội, sẽ
gây ảnh hưởng chính trị xấu trong nhân dân và có nhiều hậu quả tai hại: sẽ làm
cho quần chúng không phân biệt ranh giới giữa ta địch; sẽ gây nhiều khó khăn
trong việc ổn định tình hình, giữ gìn trật tự trị an và còn ảnh hưởng lâu dài
trong việc củng cố miền Bắc, trong cuộc đấu tranh cách mạng tiến lên xã hội chủ
nghĩa sau này.
I- TIÊU CHUẨN,
CHÍNH SÁCH, THỦ TỤC XÉT TRONG BƯỚC 3:
1. Tiêu chuẩn xét trả lại tự
do cho những người bị xử trí oan trong bước 3
Ngoài việc phải tiếp tục xét trả
lại tự do cho những người thuộc tiêu chuẩn bước 1, bước 2 còn sót lại, trong bước
3 sẽ trả lại tự do cho những người thuộc nông dân lao động bị quy sai là địa chủ
và bị kết luận sai là phản động và địa chủ kháng chiến hoặc địa chủ thường bị kết
luận sai là phản động hoặc phá hoại hiện hành đã bị bắt giam (Thông tư số
5983-P1 của Thủ tướng phủ).
Trong khi tiến hành bước 1, bước
2 có một số trường hợp cần để xem xét tiếp bước 3. Do đó những người cần được
xét trả lại tự do trong bước 3 gồm những trường hợp cụ thể như sau:
a) Những người thuộc thành phần
nhân dân lao động, phú nông bị quy sai là địa chủ và kết luận oan là phản động
hoặc bị kết án về tội cường hào gian ác.
b) Những người thuộc thành phần
nông dân lao động trước đây là ngụy quân, ngụy quyền, bị quy sai là cường hào
gian ác cá biệt hoặc phần tử phản cách mạng hiện hành; nay xét những tội ấy
không đáng trừng trị.
c) Những địa chủ kháng chiến, địa
chủ thường bị kết án oan về tội phản động hoặc tội phá hoại hiện hành, hoặc bị
kết án oan về tội cường hào gian ác, nay thấy rõ ràng là oan (để phân biệt rõ địa
chủ cường hào gian ác thì cần nghiên cứu bản điều lệ số 472-TTg ngày 1-3-1955
và thông tư bổ sung số 1196-TTg ngày 28-12-1956 của Thủ tướng phủ đã quy định
rõ thế nào là địa chủ cường hào gian ác.
d) Từng lớp trên ở miền núi (thổ
ty, lang đạo, thống lý, quan mán) bị kết tội oan về cường hào gian ác, về phản
động trước cải cách ruộng đất hay trong cuộc vận động lập Khu tự trị.
e) Những người hoặc là cán bộ, bộ
đội hoặc là gia đình cán bộ bộ đội, thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với
cách mạng, với kháng chiến, đáng lẽ được xét trong bước 1 nhưng có tội và quần
chúng đòi phải trừng trị, nên phải để lại xét trong bước 3 .
Tóm lại: trong bước 3 ta phải
xét lại tất cả những người bị kết án sai là phản động hay phá hoại hiện hành
hay kết án sai về tội cường hào gian ác trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ
chức vận động lập Khu tự trị; người nào đúng là cường hào gian ác, và phản động
hay phá hoại hiện hành thì không xét trả lại tự do; còn việc ân giảm, ân xá thì
xem xét sau.
2. Chính sách xử lý đối với một
số loại xét trong bước 3
a) Đối với những người thực sự
là oan, toà án xét lại, huỷ bỏ bản án cũ, trao lại tự do cho người bị kết án
oan.
b) Đối với những người có ít tội,
nhưng tội không đáng trừng trị thì toà án cũng xét lại, cải án và miễn tố cho
can phạm.
c) Đối với những người có tội
tương đối nặng hơn trường hợp trên, nhưng xét có thể khoan hồng và những người
thực sự có tội, đáng xử nhẹ, nhưng đã xử quá nặng thì cũng cải án để phóng
thích (Những trường hợp xử nặng ít nhiều, như đáng 5 năm xử 10 năm, 15 năm ...
thì sẽ xét hoặc ân giảm, ân xá trong một dịp khác).
d) Đối với những người có phạm
những tội trước Cách mạng Tháng Tám, cần căn cứ vào nguyên tắc tội trước cách mạng
nhẹ hơn tội sau cách mạng mà xử trí khoan hồng. Trong loại này, cần phân biệt:
- Đối với nhân dân lao động có
những tội trước Cách mạng Tháng Tám mà bị kết án tù thì nay coi những tội đó
không đáng trừng trị, toà án huỷ bỏ bản án cũ và trả lại tự do
- Đối với địa chủ phạm tội ác
trước Cách mạng nhưng không nặng lắm và từ khi cách mạng thành công đến nay đã
biết tuân theo pháp luật, không có những hành động chống phá chính sách gì thì
coi như tội đó không đáng trừng trị và cho ân xá.
Trường hợp cá biệt, tuy sau cách
mạng không có tội, nhưng tội trước cách mạng quá nặng (nhiều nợ máu nhân dân,
oán ghét và tha thiết yêu cầu trừng trị) thì dù là nông dân hay địa chủ cũng phải
giữ lại.
đ) Đối với những người phạm tội
trong thời kỳ tạm chiếm theo Sắc lệnh số 218/SL ngày 1-10-1954 nói về
"không trừng phạt những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian
chiến tranh thì nói chung đối với những người đã bị kết án về tội việt gian, phản
động, làm tề, ngụy ... đều được khoan hồng và tha. Nhưng đối với những tên dựa
vào thế lực địch, phạm những tội ác nghiêm trọng và nhân dân oán ghét, yêu cầu
trừng trị thì giữ lại, vì chúng đã phạm vào tội hình sự như đốt nhà hay cướp của,
giết người.
3. Phương pháp xác minh lại tội
trạng
Việc tiến hành xết bước 3 lần
này cần lồng vào công tác bước 2 của kế hoạch sửa sai toàn diện mà xác minh lại
thành phần, điều tra thu thập tài liệu, xác minh các tội trạng, cũng như thực
hiện việc công bố ở xã và giải quyết các vấn đề về quyền lợi chính trị, kinh tế
cho những người được xét trả lại tự do trong bước 3.
Công tác điều tra xác minh là do
uỷ ban hành chính xã (đã được kiện toàn theo kế hoạch sửa sai toàn diện ),
nhưng cần có sự hướng dẫn, theo dõi chặt chẽ của toà án, ty công an tỉnh. Các cấp
tư pháp và công an liên khu và tỉnh, cần có kế hoạch cụ thể giúp đỡ cho ủy ban
hành chính huyện, xã trong việc này.
Phương pháp xác minh chủ yếu là
dựa vào cán bộ cũ và mới, quần chúng tốt ở xã được học tập thông suốt chủ
trương của Đảng và Chính phủ về việc trả lại tự do. Trong những trường hợp khó
khăn, phức tạp, thì công an và toà án cần phối hợp cử cán bộ về tận nơi xác
minh từng vụ, thu thập tài liệu thật chính xác để cùng xã có một kết luận chung
cho thống nhất.
4. Vấn đề áp dụng thủ tục
pháp lý:
a) Việc xét xử laị các bản
án:
Việc xét lại các án do Toà án
nhân dân khu phụ trách. Bộ Tư pháp sẽ có chỉ thị hướng dẫn về thủ tục pháp lý
cho các Toà án khu.
b) Việc công bố án:
Việc công bố án phải theo đúng
thủ tục pháp lý. Các bản án và các quyết định miễn tố, phóng thích, ân xá, sẽ tổ
chức công bố ở xã, do ủy ban hành chính xã phụ trách.
-Đối với nhân dân lao động bị
kích lên địa chủ và đối với địa chủ kháng chiến thì hình thức công bố như bước
2.
- Đối với địa chủ thì không công
bố rộng rãi, chỉ cần giải thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách khoan hồng, chủ
trương trả lại tự do để nhân dân yên tâm.
- Không sao bản án cho đương sự
giữ đem về xã.
II - GIẢI QUYẾT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN TRONG VIỆC XÉT XỬ TRẢ LẠI TỰ DO TRONG CẢ BA BƯỚC
Trong thời gian giải quyết việc
trả lại tự do bước 1 và bước 2, các địa phương đều có phát hiện một số vấn đề cần
phải được tiếp tục giải quyết.
1. Vấn đề tiếp tục xoá quản
chế, bỏ tiếng phản động, phá hoại, liên quan phản động:
Đây là vấn đề quan hệ đến sinh mệnh
chính trị của người dân, đến danh dự của họ, của gia đình và họ hàng của họ; vì
vậy cần tiếp tục kết hợp trong bước này, để xoá quản chế, bỏ tiếng phản động,
phá hoại hay liên quan phản động cho những người oan.
a) Xoá quản chế: Toà án
nhân dân tỉnh cần xét lại các trường hợp quản chế trong giảm tô, cải cách ruộng
đất, vận động lập khu tự trị để xoá quản chế cho những người bị quản chế oan và
xoá quản chế cả cho những người trước đây bị quản chế mà không có quyết nghị của
các toà án hay của ủy ban hành chính tỉnh.
Đối với những người cần giữ lại
quản chế thì tuyên bố rõ tên từng người, thời hạn quản chế và kỷ luật quản chế.
Nơi nào trước đây đã xoá quản chế
lầm thì giải quyết như sau:
- Đối với những người bị quản chế
trong giảm tô, cải cách ruộng đất, vận động lập khu tự trị mà đã xoá lầm thì
không đặt vấn đề quản chế lại nữa.
- Đối với những người quản chế
do ủy ban hành chính hay toà án nhân dân tỉnh quyết định quản chế không thuộc
trong những phạm vi kể trên như lưu manh, côn đồ... mà đã xoá lầm thì phải giữ
lại quản chế theo đúng thủ tục và kỷ luật quản chế.
b) Xoá tiếng phản động, phá
hoại hay liên quan phản động.
Đối với những người trước đây bị
bắt đi quản huấn, bắt kiểm thảo hoạc bị bắt giam trong thời gian đã được"
tha" trước khi có thông tư trả lại tự do cho những người bị oan thì đối với
những người bị oan này phải tuyên bố xoá tiếng phản động hay liên quan cho họ
và phải tuyên bố khôi phục công quyền, danh dự cho họ; chú ý giáo dục họ họ có
thái độ đúng mức đối với những người đã tố mình, và có ý thức tôn trọng luật
pháp.
2. Đường lối và biện pháp giải
quyết trong những trường hợp tha lầm
Hiện nay ở nhiều địa phương, lẻ
tẻ có hiện tượng tha lầm địa chủ cường hào gian ác, phản động ,lưu manh... về
xã và chúng đã có hành động phá hoại.
Các khu, tỉnh cần kiểm tra lại
việc này và báo cáo lên Thủ tướng phủ.
Đối với những người tha lầm (phần
tử phản động, địa chủ cường hào gian ác thật sự, lưu manh côn đồ và các tội phạm
hình sự khác) cần phân biệt những trường hợp khác nhau, tính chất khác nhau để
giải quyết được đúng đắn.
a) Đối với những người không
thuộc phạm vi của việc xét trả lại tự do (thường phạm, phạm tội chính trị
do toà án nhân dân thường xử) mà địa phương đã tha lầm thì phải bắt lại.
b) Đối với những người thuộc phạm
vi của việc xét trả lại tự do thì nói chung ta không vội vàng bắt lại, vì có thể
gây hoang mang trong số người đã trả lại tự do và trong nhân dân. Nhưng có hai
truờng hợp sau đây cần phải xét kỹ để giải quyết:
- Nếu những phần tử đã được tha
lầm về địa phương đã có những hành động rõ rệt phá hoại, gây ra những vụ rối loạn
ở nông thôn thì công an cần phải tiến hành điều tra xác minh, lập hồ sơ chu
đáo, sau đó tuỳ theo tính chất, mức độ nghiêm trọng đến đâu, cần thiết hay
không, mà đề nghị Uỷ ban hành chính tỉnh xét và nếu cần bắt lại thì Toà án nhân
dân tỉnh ra lệnh bắt.
Nếu những phần tử đã được tha lầm
về địa phương, tuy chưa có hành động phá hoại rõ rệt, nhưng đa số quần chúng
không tán thành việc tha về, thì công an tỉnh cũng phải tiến hành xác minh lại,
thu thập ý kiến của quần chúng và các cơ quan chính quyền, đoàn thể ở xã; nếu
xét cần thiết phải bắt giữ lại thì phải đề nghị cơ quan trước đã ra lệnh tha,
nay ra lệnh bắt lại. Cần chú ý việc dùng biện pháp bắt trong những trường hợp
nói trên đều phải trải qua công tác điều tra, nghiên cứu cẩn thận, dựa vào ý kiến
của quần chúng; nếu được đa số quần chúng tán thành thì mới bắt lại.
Trường hợp cần phải bắt lại một
số ở cùng một nơi thì cũng không nên bắt tất cả ngay trong một lúc mà sẽ bắt dần
dần, đồng thời cần nói rõ lý do và giải thích để nhân dân và những người được
trả lại tự do khỏi hoang mang.
Trong việc bắt giữ lại, phải làm
đúng thủ tục pháp lý. Toà án sẽ tuỳ theo từng trường hợp, ra quyết định hủy bỏ
lệnh hay bản án xử lầm trả lại tự do trước kia.
Đối với những người thuộc thành
phần nông dân lao động vì có sai hoặc có ít tội, đối với địa chủ kháng chiến, địa
chủ thường có ít nhiều sai lầm không quan trọng, khi được tha về địa phương, nếu
có người thắc mắc, thì phải tiếp tục giải thích cho nhân dân chính sách, chủ
trương trả lại tự do, tinh thần đoàn kết và ngăn ngừa việc đánh chửi nhau. Đối
với những trường hợp này không được bắt giữ lại.
3. Giải quyết những vụ xử tử
hình oan:
a) Vấn đề này cần phải đặt ra
vì theo tình hình chung thì trong số người bị xử tử hình có một số oan, trong
đó có cán bộ quần chúng nông dân tốt. Hiện nay, có nhiều gia đình, vợ con họ
yêu cầu Chính phủ minh oan; nếu trong dịp trả lại tự do này, ta không minh oan
cho những người bị xử tử hình oan thì sẽ ảnh hưởng không tốt trong tư tưởng những
gia đình có người bị xử oan và trong nhân dân.
b) Đối với các vụ xử tử hình
oan, cần giải quyết như sau:
-Đối với những người không có tội,
hoặc có ít tội không đáng xử tù mà bị xử tử hình oan thì bất cứ là địa chủ hay
nông dân cũng cần minh oan.
-Đối với những người có một số tội,
nhưng về pháp luật chỉ đáng xử tù, chưa đến mức tử hình mà bị tử hình thì cần
chia ra: loại thứ nhất là nhân dân lao động, phú nông, địa chủ có con đi bộ đội
hay làm cán bộ có một số tội chỉ đáng xử tù nhẹ ( như 5, 10 năm tù ) mà bị xử tử
hình thì cũng cần minh oan; còn loại thứ hai là người có tội đáng xử tù 15, 20
năm hay chung thân mà xử tử hình thì không xét.
c) Trường hợp cán bộ, bộ đội,
gia đình cán bộ, bộ đội liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng chết trong khi
bị giam giữ cũng được xét và minh oan trong dịp này. Còn đối với tất cả các
trường hợp khác sẽ xét và minh oan sau; trong khi chưa xét cũng cần phải đặc biệt
chú ý việc giải thích, an ủi, săn sóc giúp đỡ những gia đình có người bị oan.
d) Việc xác minh lại những án
xử tử hình oan cũng phải kết hợp với bước 2 trong kế hoạch sửa sai toàn diện.
Cần phải làm thật thận trọng, lập hồ sơ đầy đủ và xét thấy thật là oan, thì Toà
án khu sẽ kết luận bằng một bản án.
d) Việc công bố xoá án tử hình
oan không nên tổ chức một cuộc họp riêng mà sẽ làm nhân dịp có cuộc họp nào ở
xóm, thôn hay xã, tuỳ theo từng trường hợp của từng người; nhưng tránh gây
không khí buồn thảm, kích động nnhân dân; không nên đọc toàn văn bản án xử oan.
Điều chủ yếu trong vấn đề này là
phải tích cực giải thích cho gia đình người bị oan; thiết thực giúp đỡ về tinh
thần, vật chất. Cần chú ý trong dịp tết sắp đến, đoàn thể, chính quyền cử cán bộ
đến thăm viếng gia đình, giúp đỡ họ trong dịp tết; vận động một số đồng bào
trong xóm đến thăm viếng, an ủi, giúp đỡ, tỏ tình đoàn kết, thông cảm với đau
xót của họ.
4. Vấn đề tuyên truyền giáo dục:
Việc tuyên truyền giáo dục trước
đây chưa được chú trọng đúng mức, nhất là ở xã và đối cán bộ, nhân dân và gia
đình có người bị bắt oan, xử trí oan. Nay cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ
trương trả lại tự do; phát huy tác dụng tốt của những anh em được trả lại tự do
khi về xã. Tiếp tục bồi dưỡng, giáo dục chính sách, chủ trương của Đảng, Chính
phủ cho anh em được trả lại tự do. Cần chú ý việc vận động nhân dân đoàn kết,
giúp đỡ nhà ở, sinh hoạt cho anh em, nhất là trong dịp Tết này, không để anh em
đói rét, không nhà ở, kết hợp trong các bước sửa sai toàn diện, giải quyết thoả
đáng các vấn đề khác cho anh em .
Việc tổ chức lớp học cho những
người được trả lại tự do bước 3 không nên kéo dài này, cố gắng làm trong 1 tuần
lễ, hay 10 ngày cho đến 15 ngày thì có thể trả lại tự do cho họ về xã trước Tết
âm lịch để ổn định tình hình tư tưởng cho gia đình họ và cho nhân dân.
Đối với số người được xét là
hoàn toàn oan thì cần chú ý giáo dục cho họ có thái độ tốt đối với nhuững người
đã tố sai; phát huy tác dụng gương mẫu, góp phần tích cực vào việc sửa sai
chung, đoàn kết nhân dân, đẩy mạnh các công tác.
Đối với loại có ít nhiều tội, cần
cho họ thấy họ có một số sai lầm tội lỗi với nhân dân, nay được Chính phủ khoan
hồng, chứ không phải là hoàn toàn vô tội nhất là đối với địa chủ, nguỵ quân nguỵ
quyền cần xác minh cho họ có thái độ đúng mức khi về địa phương, giáo dục tinh
thần đoàn kết, ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng nhân dân.
Đối với nhân dân ở xã, cần giải
thích rõ chủ trương trả lại tự do cho những người bị oan và chính sách khoan hồng
đối với những người có ít tội lỗi, làm cho nhân dân yên tâm và xoá bỏ thành kiến,
nhất là đối với những người có ít nhiều sai lầm.
Uỷ ban hành chính các cấp cần hết
sức chú ý đến công tác tuyên truyền, giáo dục và có kế hoạch cụ thể để đảm bảo
phát huy kết quả tốt của chủ trương trả lại tự do của Chính phủ.
5. Quy định thống nhất vấn đề
chi tiêu, giúp dỡ những người được trả lại tự do trong bước 3
Việc chi tiêu cho những người được
trả lại tự do đã chiếm một phần khá lớn ngân sách. Trước đây có địa phương đã nặng
về sử dụng ngân quỹ quốc gia, nhẹ việc vận động nhân dân tương trợ, giúp đỡ.
Nay cần chú ý nắm vững nguyên tắc
chi tiêu và phải chú ý đến khả năng tài chính hiện nay. Việc chi tiêu cho những
người được xét trong bước 3, nay quy định là: mỗi người được cấp 1 cân 500 gam
gạo trong một ngày những ngày ở lớp học ; nếu ai ốm đau thì được chăm sóc, chữa
bệnh; người nào rách rưới quá thì được cấp một bộ quần áo cánh, người nào không
có thì cấp cho một bộ quần áo cánh và một quần đùi, một may ô, tiền đi đường sẽ
tuỳ theo đường xa hay gần của từng người mà cấp để đủ về đến xã. Nếu địa phương
xét thấy gia đình nào quá túng thiếu thì cấp cho họ từ một tạ đến một tạ rưỡi
thóc. Những người thuộc diện bước 1, bước 2 còn để sót lại ở bước 3, nay đang
tiếp tục xét thì đãi ngộ bình thường theo chế độ như nói trong chỉ thị trước của
Thủ tướng phủ.
Cần kiệm trong việc chi tiêu
trong vấn đề này để trách chi tiêu không đúng nguyên tắc hoặc lãng phí, tham ô.
6. Về vấn đề xác minh lại các
số liệu
Trong khi giải quyết bước 1 và
bước 2, các địa phương đều có phát hiện tình trạng có người đáng được xét trả lại
tự do nhưng đến nay chưa tìm thấy.
Việc nắm đầy đủ số liệu về những
người đã bị bắt giam, bị xử tù hay xử tử hình ... trong thời gian cải cách ruộng
đất, chỉnh đốn tổ chức, vận động thành lập khu tự trị, đến nay vẫn chưa được cụ
thể, chính xác.
Ngoài ra, trong khi trả lại tự
do cho những người thuộc bước 1, bước 2, ta có tha lầm một số người, nhưng chưa
phát hiện đầy đủ.
Việc nắm các số liệu rất cần thiết,
sẽ giúp cho Chính phủ có cơ sở nhận định tình hình được chính xác, đánh giá
đúng mức các sai lầm và cũng giúp cho địa phương giải quyết các vấn đề tồn tại
sau này được tốt.
Cho nên trong khi giải quyết bước
3, cần phải kết hợp xác minh các số liệu sau đây:
- Số người đã bị bắt xử trí nằm
trong diện cần được xét trả tự do (chia ra từng bước) cho đến nay làm xong cả 3
bước .
- Số người đáng được trả lại tự
do nhưng đến nay chưa tìm thấy.
- Số người không đáng trả lại tự
do nhưng đã thả lầm qua ba bước.
- Số người bị bắt trong cải cách
ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, vận động lập khu tự trị đáng được tha những đã giữ
lại.
Vấn đề xác minh lại các số liệu
rất quan trọng, nhất là việc truy tìm những người đáng được trả lại tự do mà
nay chưa tìm thấy người. Hiện nay, lẻ tẻ đã có gia đình của những người đó gửi
đơn đến các cơ quan chính quyền, đoàn thể yêu cầu xét trả lại tự do cho người
nhà họ. Nếu sau khi giải quyết xong bước 3, mà không tìm được đầy đủ số người
thiếu mặt, thì sẽ gặp nhiều khó khăn và bị động.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ
Công an có nhiệm vụ cho soát lại danh sách trong các trại cải tạo, các trại
giam, Uỷ ban cải cách ruộng đất Trung ương và Uỷ ban ruộng đất khu có nhiệm vụ
cung cấp tài liệu, hồ sơ vè việc bắt và xét xử ở các đoàn đội cải cách ruộng đất
; Uỷ ban hành chính tỉnh có kế hoạch cho cấp xã phát hiện đầy đủ số người bị bắt
oan trong giảm tô, cải cách ruộng đất, số người này chưa được trả lại tự do và
số người đã tha lầm về xã. Mặt khác, cần có kế hoạch cho các nông trường, công
trường phát hiện số người bị bắt trong giảm tô, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ
chức đưa đến làm ở các nông trường, công trường.
Sau đó Bộ Công an có nhiệm vụ tổng
hợp các tài liệu, làm báo cáo lên Thủ tướng phủ và đề nghị biện pháp giải quyết.
III- TỔ CHỨC
LÃNH ĐẠO BƯỚC 3 XÉT TRẢ LẠI TỰ DO
1. Do tính chất phức tạp và quan
trọng của việc xét trả lại tự do bước 3 và rút kinh việc lãnh đạo trong hai bước
vừa qua, nay cần tăng cường lãnh đạo trong bước 3, chủ yếu là có kế hoạch lồng
bước 3 xét trả lại tự do vào bước 2 sửa sai toàn diện, để tiến hành mọi công
tác được tốt. Riêng đối với Liên khu 4, cần tăng cường lãnh đạo Quảng Bình,
Vĩnh Linh, vì nếu việc trả lại tự do ở hai nơi này không được tốt sẽ có ảnh hưởng
xấu vào miền Nam. Đối với vùng ngoại thành các thành phố lớn cũng cần tăng cường
việc lãnh đạo để khỏi ảnh hưởng xấu vào thành phố.
2. Để đảm bảo việc thực hiện kế
hoạch bước 3 được tốt, nay cần nhắc lại là: chính quyền các cấp có nhiệm vụ thực
hiện công tác xét trả lại tự do, trong đó công an, cùng với toà án các cấp tổ
chức thành một tiểu ban chuyên trách đặt dưới sự lãnh đạo chật chẽ cuả Uỷ ban
hành chính cấp tương đương. Bộ Công an và Bộ Tư pháp sẽ có kế hoạch cụ thể cho
ngành mình ở địa phương thi hành.
3. Việc trả lại tự do bước 3 cần
phải làm thận trọng, nhưng cũng phải cố gắng hoàn thành về căn bản trước tết âm
lịch. Các nguyên tắc về xin chỉ thị, thời hạn báo cáo cần phải dược chấp hành
nghiêm chỉnh. Thời hạn báo cáo lên Thủ tướng phủ trước quy định 3 ngày một lần
nay quy định lại là cứ 7 ngày báo cáo một lần, cho sát tình hình. Báo cáo sẽ
không phải làm riêng từng bộ phận lẻ tẻ, mà sẽ làm một báo cáo thống nhất của
tiểu ban chuyên trách vấn đề trả lại tự do ở tỉnh, khu, báo cáo phải được Uỷ
ban hành chính tỉnh, Liên khu duyệt rồi gửi lên Thủ tướng phủ, Bộ công an, Bộ
Tư pháp.
Để chuẩn bị cho việc tổng kết
công tác trả lại tự do được tốt các tiểu ban chuyên trách các công tác ở địa
phương cần tổ chức việc nắm tình hình thật chặt chẽ, sưu tầm đầy đủ tài liệu ,
thống kê chính xác các con số, tránh tình trạnh báo cáo không ăn khớp, sai lệch
làm cho việc nhận định ở trên gặp nhiều khó khăn.
Tóm lại, việc xét trả lại tự do
trong bước 3 rất phức tạp, khó khăn. Chúng ta cần nghiên cứu, nắm vững tiêu chuẩn,
chính sách đối với những người dược xét trả lại tự do trong bước 3 và phương
pháp, thủ tục tiến hành để làm được đúng chính sách của Chính phủ và đạt dược kết
quả chính trị tốt, góp phần tích cực vào việc sửa sai toàn diện, đẩy mạnh các mặt
công tác khác.