VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 55/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 24 tháng 02 năm 2023
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ TẠI PHIÊN HỌP THỨ BA NGÀY
03 THÁNG 02 NĂM 2023
Ngày 03 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành
chính của Chính phủ đã chủ trì Phiên họp thứ ba của Ban Chỉ đạo trực tuyến với
63 địa phương (sau đây gọi tắt là Phiên họp). Tham dự Phiên họp có các đồng
chí: Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, Phó
Trưởng ban Thường trực; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn,
Phó Trưởng ban; đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan là thành viên Ban Chỉ
đạo và Lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại
63 điểm cầu.
Sau khi Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh
Trà, Phó Trưởng ban Thường trực báo cáo tóm tắt công tác cải cách hành chính
năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023 của Ban Chỉ đạo, các đại biểu tham
dự Phiên họp phát biểu ý kiến, Ban Chỉ đạo kết luận như sau:
1. Đánh giá cao Bộ Nội
vụ đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành chuẩn bị
tài liệu đầy đủ, đánh giá toàn diện, xuyên suốt công tác cải cách hành chính
trong năm 2022, đề ra phương hướng cho năm 2023; các đại biểu tập trung vào
đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm; đề ra nhiệm vụ, giải pháp triển khai thời gian tới. Nhất
trí với ý kiến của các đại biểu, giao Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ nghiên cứu,
tổng hợp, bổ sung hoàn thiện dự thảo báo cáo, kế hoạch hoạt động và Thông báo kết
luận của Ban Chỉ đạo để triển khai trong thời gian tới.
2. Kết quả đạt được
trong năm 2022:
- Về công tác chỉ đạo, điều hành: Thủ tướng
đã chủ trì 02 phiên họp của Ban Chỉ đạo, 01 hội nghị chuyên đề về đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính (TTHC) và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành
phục vụ người dân, doanh nghiệp; 01 cuộc đối thoại với doanh nghiệp, hiệp hội
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Các bộ, ngành, địa phương đã chủ động triển
khai các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính: đã
đề ra gần 1.100 nhiệm vụ, phân công rõ trách nhiệm, thời gian triển khai; ban
hành 342 văn bản để chỉ đạo, đôn đốc, quán triệt.
- Công tác cải cách, hoàn thiện thể chế được
chú trọng, có nhiều đổi mới, có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả, xuất phát từ
thực tế, lấy thực tế làm thước đo. Chính phủ đã tổ chức 09 phiên họp chuyên đề
về xây dựng chính sách, pháp luật; đã trình Quốc hội thông qua 39 đề nghị xây dựng
luật, dự án, dự thảo luật,, pháp lệnh; đã trình Quốc hội thông qua 12 luật, ý
kiến 08 luật; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới theo thẩm quyền 1.892 văn bản quy
phạm pháp luật (QPPL), văn bản chỉ đạo, điều hành, trong đó có rất nhiều quy định
liên quan đến TTHC, cải cách hành chính; nhất là trong tháng 01 vừa qua đã tổ
chức 01 phiên họp chuyên đề pháp luật, ban hành các Nghị quyết số: 01/NQ-CP,
02/NQ-CP, 03/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2023...
Công tác kiểm tra, rà soát, theo dõi thi
hành, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường, đôn đốc. Trong năm, các bộ,
ngành, địa phương đã kiểm tra theo thẩm quyền gần 12.000 văn bản QPPL, rà soát
hơn 27.800 văn bản và kiến nghị xử lý hơn 5.700 văn bản.
- Công tác cải cách TTHC, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh được đẩy mạnh, phục vụ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Trong năm 2022, đã cắt giảm, đơn giản hóa 1.041 quy định kinh doanh tại 101 văn
bản; Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án phân cấp 699 TTHC/100 lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ; cả nước đã thành lập 11.700
Bộ phận Một cửa các cấp để tiếp nhận, giải quyết TTHC, trong đó có 56/63 địa
phương tổ chức theo mô hình Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh; 100% bộ,
ngành, địa phương đã xây dựng và đưa vào vận hành cổng dịch vụ công và hệ thống
thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; gần 4.400/6.502 TTHC cung cấp dịch
vụ công trực tuyến (đạt trên 67%); hơn 164 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn
4,6 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến; cơ bản hoàn thành tích hợp, cung cấp
25/25 dịch vụ công thiết yếu theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm
2022 (Đề án 06) lên Cổng Dịch vụ công quốc gia.
- Công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước được triển khai quyết liệt, đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong năm
vừa qua, ở Trung ương đã thực hiện việc rà soát chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy các bộ, ngành; sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, giảm cấp trung gian; cơ bản
hoàn thành việc ban hành Nghị định về các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (đến nay,
đã ban hành 24 nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các bộ,
cơ quan; dự kiến cắt giảm 17 tổng cục và tổ chức tương đương, 8 cục (thuộc tổng
cục và thuộc bộ), 145 vụ và tương đương, 22 đơn vị sự nghiệp công lập). Ở địa
phương, theo số liệu của Bộ Nội vụ, năm 2022, tiếp tục giảm 711 tổ chức phòng
thuộc cơ quan chuyên môn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
- Cải cách công vụ, công chức có nhiều đổi mới.
Năm 2022, Chính phủ đã ban hành 03 nghị định và đang xem xét để ban hành 03 nghị
định quy định các nội dung liên quan đến chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Các bộ, ngành, địa phương đã tuyển dụng thêm nhiều công chức, viên
chức mới và thực hiện cải cách thi tuyển với kết quả tích cực. Hệ thống Cơ sở dữ
liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức đã được khai trương, đi vào hoạt
động, dự kiến quản lý gần 2,5 triệu bộ hồ sơ điện tử.
- Chuyển đổi số quốc gia được triển khai một
cách mạnh mẽ, thực chất, đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính
phủ số, kinh tế số, xã hội số, trở thành điểm sáng trong năm vừa qua: Đề án 06
với nhiều tiện ích, đặc biệt là việc quản lý công dân thông qua căn cước gắn
chíp điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được chỉ đạo quyết liệt,
triển khai đồng bộ trên toàn quốc. Đến nay, đã cấp gần 78 triệu căn cước công
dân gắp chíp điện tử, đã kết nối dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDLQG) về
dân cư với 13 bộ, ngành, 04 doanh nghiệp và 57 địa phương. Các Hệ thống thông
tin phục vụ chỉ đạo, điều hành tiếp tục được triển khai, phát huy hiệu quả: Hệ
thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ đã xử lý gần 1.500
Phiếu lấy ý kiến giúp thay thế hơn 524 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy. Trục liên
thông văn bản quốc gia có khoảng 18 triệu văn bản điện tử gửi, nhận giữa các cơ
quan hành chính nhà nước các cấp.
3. Bên cạnh đó, còn
nhiều kết quả chưa đạt được như Chương trình, Kế hoạch đề ra và vẫn còn những tồn
tại, hạn chế cần khắc phục:
- Thứ nhất là, một số mục tiêu về cải cách
hành chính chưa đạt được, như mục tiêu về cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
- Thứ hai là, tình trạng nợ văn bản quy định
chi tiết vẫn chưa được khắc phục triệt để; nhân lực, kinh phí, điều kiện bảo đảm
cho công tác pháp chế còn hạn hẹp; công tác rà soát văn bản QPPL, xử lý kết quả
sau rà soát chưa được chú trọng; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa cao; cơ chế
quản lý hồ sơ, giấy tờ, dữ liệu cũng còn nhiều sơ hở, bất cập khiến lộ lọt bí mật;
tổ chức bộ máy ở một số bộ, cơ quan, đơn vị còn cồng kềnh chồng chéo.
- Thứ ba là, việc giải quyết TTHC cho người
dân, doanh nghiệp vẫn còn tình trạng chậm trễ, phiền hà, tham nhũng vặt. Việc cắt
giảm quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tại một số bộ, ngành chưa đáp ứng
chỉ tiêu yêu cầu.
Mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
còn chưa cao; người dân, doanh nghiệp vẫn phải đi lại nhiều lần để thực hiện
TTHC (có 46/63 tỉnh, thành vẫn còn để xảy ra tình trạng sách nhiễu, phiền hà
trong thực hiện TTHC, dịch vụ công; 22/63 địa phương để xảy ra tình trạng cán bộ,
công chức gợi ý nộp thêm tiền ngoài phí, lệ phí); việc số hóa hồ sơ, giấy tờ
liên quan giải quyết TTHC còn chậm; việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến có
nơi còn hình thức, tỷ lệ còn thấp. Việc kết nối dữ liệu hai chiều từ hệ thống
thông tin của các bộ, ngành, địa phương với các CSDLQG chưa thông suốt; tỷ lệ
các cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu mở rất ít, chỉ đạt 15 %; theo đánh giá của
Liên Hợp quốc, xếp hạng dịch vụ công trực tuyến và dữ liệu mở của Việt Nam so với
193 quốc gia, vùng lãnh thổ năm vừa qua tuy có cải thiện nhưng còn thấp (76/193
và 87/193), chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu đề ra.
4. Những tồn tại, hạn
chế trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ
quan là chủ yếu, như: do nhận thức của những người làm công tác cải cách hành
chính còn chưa đúng tầm, khiến hành động chưa tương xứng nên kết quả còn chậm
so với mục tiêu, yêu cầu, mong muốn người dân; quá trình thực hiện thiếu linh
hoạt, sáng tạo, có nơi, có lúc lúng túng trong chỉ đạo, điều hành xử lý công việc.
Một số cá nhân người đứng đầu có tâm lý né tránh, sợ trách nhiệm, ảnh hưởng đến
tiến độ. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị còn thiếu chủ động, chặt chẽ.
Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức một số nơi còn hạn chế. Công tác xây dựng
Chính phủ điện tử, thực hiện chuyển đổi số ở một số địa phương, bộ, ngành còn
chậm, dẫn đến lạc hậu, đi sau, cản trở phát triển.
Qua đây, cần rút ra bài học kinh nghiệm là:
(1) phải có sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của người đứng đầu; (2) phải có đầu
tư về cơ sở vật chất, con người, phương tiện trong công tác cải cách chính nhiều
hơn; (3) cần thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các bộ, ban, ngành, giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhau.
5. Về quan điểm, yêu
cầu:
- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính
giúp: (1) tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; (2) giảm thời gian, công
sức cho cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ của
mình; (3) góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là tham nhũng vặt;
(4) giảm chi phí đầu vào sản xuất kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh;
(5) làm môi trường, hệ sinh thái hành chính trong sạch, lành mạnh, công khai,
minh bạch.
- Cải cách hành chính được Đảng ta xem là nhiệm
vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới xác định: “Tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây dựng nền
hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu
lực, hiệu quả”. Chính phủ sẽ tiếp tục quyết liệt triển khai các đột phá chiến
lược theo chủ trương, đường lối của Đảng, gồm các đột phá về thể chế, hạ tầng
và nhân lực, trong đó có công tác cải cách hành chính.
- Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của nhà nước; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết;
thực hiện nhiệm vụ có trọng tâm, trọng điểm, quyết liệt, thường xuyên, liên tục,
hiệu quả.
- Tăng cường kết nối, phối hợp chặt chẽ giữa
trước và sau, hiện tại, quá khứ; phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục
khó khăn, tranh thủ thời cơ, vận hội, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cải cách
hành chính năm 2023 theo phương châm hành động của Chính phủ “Đoàn kết kỷ
cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”.
- Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng
bộ, thông suốt, quyết tâm hành động từ Trung ương xuống địa phương theo tinh thần
“tiền hô hậu ủng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, tránh tình trạng
“trên nóng, dưới lạnh” hoặc "dưới nóng, trên lạnh”. Cơ quan nhà nước, cán
bộ, đảng viên phải tiên phong, đi đầu trong cải cách.
- Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu các bộ,
ngành, địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ cải cách hành
chính. Phát huy hơn nữa tinh thần chủ động linh hoạt, đổi mới sáng tạo, dám
nghĩ dám làm, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, có trọng tâm trọng điểm, đặt lợi ích
quốc gia dân tộc lên trên hết.
6. Về định hướng, nhiệm
vụ giải pháp thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo yêu cầu các
bộ, ngành, địa phương và các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo tập trung thực hiện
một số nhiệm vụ sau:
Năm 2023, tập trung đẩy mạnh cải cách hành
chính gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trọng tâm là cải cách thể chế, cắt
giảm TTHC, nhất là TTHC trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước, quy định
kinh doanh, giảm thời gian, chi phí hành chính, nâng cao chất lượng cung cấp dịch
vụ công trực tuyến, tăng cường mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp, lấy
người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, làm trung tâm phục vụ.
a) Các bộ, ngành, địa phương.
- Đẩy mạnh rà soát, ban hành các nhiệm vụ, giải
pháp cụ thể, tạo đột phá trong công tác cải cách hành chính trên cơ sở bám sát
các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, pháp luật của nhà nước; chủ động,
tích cực, sáng tạo trong việc tổ chức triển khai các nhiệm vụ cải cách hành
chính, đồng thời, tăng cường kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện tại các đơn vị,
địa phương; khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ nợ đọng của năm 2022; thực hiện
kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của địa phương, yêu cầu Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh là Trưởng ban.
- Triển khai hiệu quả các nhiệm vụ cải cách
TTHC được giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Chính
phủ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia: (1) Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động
kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025; (2) Đẩy mạnh cải cách TTHC, hiện đại hóa
phương thức chỉ đạo, điều hành tại Nghị quyết số 131/NQ-CP ngày 06 tháng 10 năm
2022 của Chính phủ; (3) Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL để thực
thi phương án phân cấp các TTHC; (4) Rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ trong hệ
thống hành chính nhà nước; (5) Đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông trong giải quyết TTHC; (6) Tiếp tục rà soát, kiến nghị bãi bỏ các điều kiện
kinh doanh tại các luật chuyên ngành, bãi bỏ điều kiện kinh doanh không hợp
pháp, không cần thiết, không khả thi, thiếu cụ thể; (7) Phấn đấu đạt và vượt
các chi tiêu cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử được giao.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số
27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII. Tập trung nâng cao chất lượng
công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Xây dựng, ban hành đầy đủ, kịp
thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Chú trọng công tác “hậu
kiểm” văn bản QPPL, công tác phổ biến giáo dục pháp luật theo các Đề án đã được
phê duyệt. Thực hiện tốt công tác truyền thông chính sách theo Quyết định số
407/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường nguồn
nhân lực và kinh phí cho công tác tư pháp. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền,
cá thể hóa trách nhiệm, gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi,
đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.
- Đẩy mạnh sắp xếp tổ chức bộ máy thực hiện
theo Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII, gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức theo Kết luận số 28-KL/TW ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Bộ Chính trị.
Các bộ, cơ quan đẩy nhanh tiến độ rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, sắp
xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị trực thuộc, đáp ứng tiêu
chí theo quy định của Chính phủ.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ,
nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính. Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực hoàn
thành việc hướng dẫn vị trí việc làm công chức nghiệp vụ chuyên ngành, vị trí
việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành của viên chức.
- Tiếp tục hoàn thiện, kết nối các CSDLQG,
các hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Cổng Dịch vụ công quốc gia và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho
người dân, doanh nghiệp. Triển khai hiệu quả Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu
về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Tập
trung xây dựng, phát triển, hoàn thiện cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương
mình. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong việc thanh toán không dùng tiền mặt các lĩnh
vực thuế, phí, ngân hàng... Đẩy mạnh thực hiện “Năm dữ liệu số, tạo lập và khai
thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới”.
b) Bộ Tư pháp
Hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương
tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hiệu
lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Nghiên cứu tăng cường cơ chế chính sách, điều kiện làm việc cho những người làm
công tác thể chế.
c) Văn phòng Chính phủ
- Đôn đốc, tham mưu lãnh đạo Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh cải cách TTHC, hiện đại hóa phương thức chỉ đạo,
điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp; hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương
thực hiện tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết
TTHC, kết nối các dịch vụ công trực tuyến với Cổng Dịch vụ công quốc gia.
- Tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành văn bản QPPL quy định thực hiện liên thông điện tử nhóm TTHC
“Đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú - cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6
tuổi”; “Đăng ký khai tử - xóa đăng ký thường trú - trợ cấp mai táng phí”.
- Xây dựng Khung bộ chỉ số điều hành phục vụ
sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, hoàn
thành trong Quý II năm 2023.
d) Bộ Nội vụ
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên
quan nghiên cứu, xây dựng Chiến lược cải cách hành chính của Việt Nam đến 2030
và tầm nhìn đến 2050.
- Trình Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành
chính của Chính phủ Kế hoạch hoạt động, Kế hoạch kiểm tra năm 2023, hoàn thành
trong tháng 2 năm 2023.
- Tổ chức triển khai có hiệu quả Kế hoạch xác
định Chỉ số cải cách hành chính năm 2022 của các bộ, các tỉnh và Chỉ số hài
lòng về sự phục vụ hành chính năm 2022.
- Hướng dẫn, đôn đốc bộ, cơ quan, địa phương
thực hiện kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách hành chính.
- Nghiên cứu các giải pháp triển khai vị trí
việc làm trong hệ thống cơ quan hành pháp.
- Khẩn trương hoàn thiện trình Chính phủ ban
hành Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí xác định số lượng cấp phó
trong các cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính
sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài và chính sách liên thông cán bộ,
công chức cấp xã với cấp huyện, cấp tỉnh, góp phần nâng cao năng lực, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Khẩn trương xây dựng, trình ban hành Nghị định
về khuyến khích cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi
ích chung, hoàn thành trong tháng 4 năm 2023.
- Phát triển, hoàn thiện CSDLQG về cán bộ,
công chức, viên chức, kết nối, chia sẻ dữ liệu với CSDLQG về dân cư và Trung
tâm thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hoàn thành
trong Quý II năm 2023.
đ) Bộ Tài chính
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan
trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21
tháng 6 năm 2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
bảo đảm tiến độ, chất lượng theo Chương trình công tác năm 2023 của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ.
- Phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế,
chính sách, pháp luật để đẩy mạnh tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập và xã hội
hóa dịch vụ công ở các lĩnh vực có điều kiện.
e) Bộ Thông tin và Truyền thông
Tổ chức triển khai, đôn đốc các bộ, ngành, địa
phương triển khai thiết thực, hiệu quả Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07 tháng 3
năm 2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính
phủ điện tử giai đoạn từ nay đến năm 2025; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15
tháng 6 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính
phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm
2030.
g) Bộ Công an
- Chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ,
các bộ, ngành, địa phương tích hợp, kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết
TTHC cấp bộ, cấp tỉnh, hoàn thành trong Quý I năm 2023.
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị
về đẩy mạnh thực hiện Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương, hoàn thành trong
tháng 02 năm 2023.
h) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày
28 tháng 10 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.
Văn phòng Chính phủ thông báo để các Bộ, cơ
quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan
liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- TTgCP, các PTTgCP (để b/c);
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc CP;
- Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW:
- Thành viên Ban Chỉ đạo CCHC của CP;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký TTgCP;
PTTgCP, các Vụ, Cục, TTTH, TTĐT;
- Lưu: VT, KSTT(3).NTQ.
|
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
Trần Văn Sơn
|