Thông báo số 28/TB-VPCP về việc kết luận của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Kiên Giang do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 28/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 15/02/2007 |
Ngày có hiệu lực | 15/02/2007 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Quốc Huy |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 28/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 15 tháng 02 năm 2007 |
KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG THƯỜNG TRỰC CHÍNH PHỦ NGUYỄN SINH HÙNG TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI LÃNH ĐẠO TỈNH KIÊN GIANG
Ngày 06 tháng 02 năm 2007, tại thành phố Rạch Giá, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh Kiên Giang. Cùng dự có đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giao thông Vận tải, Quốc phòng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo, Ngoại giao, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Văn phòng Chính phủ và Tổng cục Du lịch. Sau khi nghe đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2006 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2007, ý kiến bổ sung của đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ; ý kiến của lãnh đạo các Bộ, cơ quan, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã kết luận như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Kiên Giang đã nỗ lực phấn đấu vượt khó khăn để đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 11% năm, năm 2006 tăng 10,04%; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đúng hướng; thu nhập bình quân đầu người 11,18 triệu đồng/năm cao hơn mức bình quân chung cả nước và Khu vực Tây Nam Bộ. Kiên Giang là tỉnh có giá trị sản xuất công nghiệp, sản lượng thuỷ sản và thu ngân sách thuộc trong nhóm đứng đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long; tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm 3,24% trong năm 2006 xuống còn 10,78%, đời sống nhân dân được cải thiện, giáo dục, y tế, văn hoá và xã hội có bước phát triển.
Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được về phát triển kinh tế-xã hội chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Tỉnh, năm 2006 còn có chỉ tiêu về phát triển kinh tế-xã hội chưa đạt kế hoạch, chỉ số phát triển giáo dục, đào tạo nghề đạt thấp so với cả nước.
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI:
1. Tập trung rà soát, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn và quy hoạch ngành, nhất là quy hoạch về xây dựng Phú Quốc thành Khu kinh tế mở, có sân bay, cảng biển quốc tế, thu hút các dự án đầu tư lớn về du lịch, thương mại, dịch vụ cao cấp, bảo đảm việc gắn kết giữa phát triển Phú Quốc với Hà Tiên-Rạch Giá; phải thể hiện cho được tầm nhìn mới hơn về vị thế của Kiên Giang trong xu thế mở cửa với khu vực Đông Nam Á và với các nước trên thế giới, cùng cả nước thực hiện thành công hội nhập kinh tế quốc tế và chiến lược phát triển kinh tế biển.
2. Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt, cần nhanh chóng xây dựng các dự án cụ thể để huy động vốn, các nguồn lực trong và ngoài nước, kêu gọi nhiều hình thức đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài để thúc đẩy Phú Quốc phát triển nhanh, tương xứng với tiềm năng.
3. Cần huy động mọi nguồn lực vào xây dựng kết cấu hạ tầng, phấn đấu đạt tốc độ phát triển kinh tế cao hơn 13%. Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng địa phương có lợi thế như gạo, thuỷ sản chế biến; phát triển nhanh công nghiệp trên địa bàn nhất là công nghiệp vật liệu xây dựng, đưa tỷ trọng ngành công nghiệp lên 40% trong cơ cấu kinh tế; phát triển mạnh các ngành du lịch, hàng hải để trong thời gian không xa, Kiên Giang trở thành Trung tâm thương mại, du lịch và vận tải hành khách hàng hải quốc tế.
4. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo nghề, thu ngắn khoảng cách so với cả nước, đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế, xuất khẩu lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo bền vững. Ưu tiên nguồn vốn đầu tư, trong đó có nguồn thu từ xổ số kiến thiết cho giáo dục, đào tạo nghề và y tế. Quan tâm hơn nữa công tác xoá đói giảm nghèo, phòng chống các tệ nạn xã hội, kiên quyết thực hiện các giải pháp để hạn chế, giảm thấp tai nạn giao thông. Không ngừng nêu cao cảnh giác, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tập trung giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm, tích cực thực hiện cuộc vận động học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. VỀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA TỈNH:
1. Phát triển huyện đảo Phú Quốc:
a) Về việc thành lập Ban Quản lý đầu tư phát triển đảo Phú Quốc: Văn phòng Chính phủ đôn đốc Bộ Nội vụ trong quý I/2007 trình Thủ tướng Chính phủ Ban Quản lý và Trưởng ban Quản lý phát triển đảo Phú Quốc.
b) Về tổ chức bộ phận thực hiện thủ tục xuất nhập cảnh tại Phú Quốc: Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các Bộ: Giao thông Vận tải, Ngoại giao và Tổng cục Du lịch triển khai thực hiện thủ tục cho cả sân bay và cảng biển.
c) Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên đảo Phú Quốc:
- Hệ thống đường giao thông chính trên Đảo: đã bố trí từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để thực hiện theo quy hoạch được phê duyệt. Nếu các công trình đã được phê duyệt mà còn thiếu vốn, Tỉnh làm việc cụ thể với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để giải quyết. Nếu kêu gọi được vốn đầu tư BOT thì dành số vốn còn lại đầu tư các công trình khác.
- Về sân bay mới và cảng biển: giao Bộ Giao thông Vận tải xem xét, xử lý.
- Đầu tư các hồ chứa nước: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Kiên Giang hoàn chỉnh lại quy hoạch thuỷ lợi huyện đảo Phú Quốc và phê duyệt theo quy định.
2. Một số vấn đề biên giới, du lịch, đối ngoại:
a) Về nâng cấp cửa khẩu Xà Xía trở thành cửa khẩu quốc tế và đổi tên thành cửa khẩu Hà Tiên: Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong quý I/2007.
b) Về việc khách du lịch đi theo tour được sử dụng giấy phép "thông hành" qua lại biên giới: Bộ Công an nghiên cứu ban hành Quy chế sử dụng hộ chiếu 2 chiều (giấy thông hành) phù hợp với tình hình hiện nay và quan hệ giữa hai nước.
c) Hỗ trợ kinh phí đối ngoại:
Việc hỗ trợ kinh phí làm đường giao thông: giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Kiên Giang và các Bộ: Tài chính, Giao thông Vận tải để đưa vào chương trình đàm phán của Uỷ ban Hợp tác Việt Nam-Campuchia, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
3. Về bổ sung xây dựng Nhà máy nhiệt điện than tại Kiên Lương vào quy hoạch phát triển ngành điện giai đoạn 2007-2020: Bộ Công nghiệp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2007.
4. Đề nghị thành lập huyện Giang Thành trong năm 2007: Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2007.
5. Về các công trình giao thông:
a) Về đề nghị tiếp tục đầu tư 26,6km quốc lộ 61, đoạn từ phà Cái Tư-Bến Nhứt: giao Bộ Giao thông Vận tải xem xét, giải quyết.
b) Về xây dựng tuyến tránh thành phố Rạch Giá: Giao Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư xem xét tìm nguồn vốn bố trí đầu tư.