Thông báo số 113/TB-VPCP về việc kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Hải Phòng do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 113/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 16/05/2007 |
Ngày có hiệu lực | 16/05/2007 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Xuân Phúc |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 113/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2007 |
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Ngày 06 tháng 5 năm 2007, sau khi đi thăm sân bay Cát Bi, thăm điểm cuối đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, khu kinh tế Đình Vũ- Cát Hải, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm việc với lãnh đạo thành phố Hải Phòng. Cùng dự buổi làm việc với Thủ tướng có đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài chính, Giao thông vận tải, Xây dựng, Thủy sản, Tài nguyên và Môi trường và Văn phòng Chính phủ. Sau khi nghe đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội từ Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng đến nay và kết quả thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 5/8/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nghe báo cáo Đề án thành lập khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải Hải Phòng; ý kiến bổ sung của đồng chí Bí thư Thành ủy; ý kiến của các Bộ, cơ quan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kết luận như sau:
Về cơ bản đồng tình với những đánh giá nêu trong báo cáo của Thành phố. Những năm qua, thành phố Hải Phòng đã nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết XIII của Đảng bộ Thành phố có hiệu quả, đạt được những thành tựu khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội; tốc độ tăng trưởng GDP khá cao (trên 11%); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt trên 51%, tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 10 nghìn tỷ đồng; đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt, đã xuất hiện những nhân tố mới, tích cực ở các ngành như công nghiệp tàu thủy, dịch vụ cảng, dịch vụ du lịch... Về cải cách hành chính, các lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và còn tồn tại một số mặt yếu, như thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thu nội địa, huy động vốn còn thấp; tỷ trọng lao động nông nghiệp còn cao; biện pháp xử lý môi trường chưa triệt để. Do vậy, Thành phố cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, cố gắng phấn đấu hơn nữa để đưa Hải Phòng phát triển toàn diện, bền vững với tốc độ cao hơn, xứng đáng là Thành phố Cảng, cửa ngõ của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và của cả nước.
II. NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI:
Thành phố cần nhận thức đầy đủ vai trò, vị thế của Hải Phòng trong sự phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đối với cả nước. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng X, Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 54/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để tập trung chỉ đạo, thực hiện quyết liệt, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Cần xác định mục tiêu phấn đấu là đưa Hải Phòng trở thành Thành phố cảng cửa ngõ chủ yếu-Trung tâm của vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; đồng thời, là một trung tâm công nghiệp, dịch vụ cảng, dịch vụ tài chính, ngân hàng của Vùng và cả nước. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện các giải pháp Thành phố đã đề ra, Hải Phòng cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
1. Cụ thể hóa Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị thành các văn bản pháp luật để vận dụng vào thực tế. Chủ động ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền; tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng cần tập trung chỉ đạo.
2. Tập trung rà soát lại các chỉ tiêu của năm 2007 và cả giai đoạn 2006-2010, để bổ sung nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu cao hơn, tầm nhìn dài hơn. Nghiên cứu đưa ra cơ chế, chính sách thông thoáng, động viên mọi nguồn lực, khai thác hiệu quả tiềm năng, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 12% năm.
Tiến hành rà soát để kịp thời bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội gắn kết với quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong đó, chú trọng quy hoạch hạ tầng đô thị, quy hoạch ngành và lĩnh vực, quy hoạch nhà ở... Phải làm cho quy hoạch thực sự là công cụ hữu hiệu, quan trọng trong quản lý đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế-xã hội.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp có giá trị tăng cao, công nghệ cao và dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, tư vấn, dịch vụ cảng - kho bãi, khoa học công nghệ...
3. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước trên địa bàn để làm rõ nguyên nhân, những mặt hạn chế, có biện pháp khắc phục kịp thời, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung giải pháp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nhanh vôn đầu tư trong và ngoài nước; tạo điều kiện để các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu tư làm ăn thuận lợi; tiến hành rà soát lại các dự án đầu tư, tìm ra nguyên nhân chậm tiến độ để có biện pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; thúc đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án, công trình trọng điểm để khai thác.
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề gây bức xúc, rác thải chưa được xử lý đúng quy định đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Thành phố cần tập trung giải quyết đồng bộ, đảm bảo đủ nước sạch cho sinh hoạt, sản xuất. Đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, các nhà máy để xử lý chất thải rắn, lưu ý lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp với yêu cầu, tránh lãng phí, thất thoát. Đồng thời, tập trung rà soát quy hoạch tổng thể cấp nước, thoát nước và vệ sinh môi trường.
4. Hết sức chú ý đẩy mạnh cải cách hành chính; trong đó, cải cách thủ tục hành chính là trọng tâm, coi đây là khâu đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội, nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư, khơi dậy các nguồn lực, tận dụng tối đa những cơ hội thuận lợi đang đến với Hải Phòng; đồng thời, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đi liền với cải cách hành chính phải tập trung làm tốt công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Khẩn trương rà soát lại các vụ việc tồn đọng, tập trung xử lý dứt điểm theo đúng pháp luật, củng cố lòng tin của cán bộ, nhân dân.
5. Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường đô thị... để góp phần tạo thêm việc làm, xóa đói giảm nghèo, giải quyết tốt quyền lợi của người dân.
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để kịp thời đáp ứng thị trường lao động thời gian tới.
Kiện toàn bộ máy, sắp xếp, đào tạo cán bộ phù hợp với năng lực chuyên môn, gắn với trách nhiệm, đạo đức của cán bộ, công chức; chấn chỉnh trật tự, kỷ cương hành chính để triển khai thực hiện nhiệm vụ một cách đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
6. Bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giải quyết tốt việc khiếu nại, tố cáo của công dân, xóa băng nhóm tội phạm có tổ chức, không để xảy ra tình huống phức tạp.
III. VỀ MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ CỦA THÀNH PHỐ:
1. Về đề nghị Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị: tại văn bản số 2305/VPCP-ĐP, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành liên quan thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ quyết định ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển thành phố Hải Phòng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số quyết định về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với thành phố Hải Phòng, giao Bộ kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát lại điểm nào chưa rõ, chưa phù hợp cần kiến nghị để kịp thời sửa đổi, bổ sung.
2. Về đề nghị tổ chức, thực hiện các dự án trọng điểm được xác định trong Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 54/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
a) Về xây dựng đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, cầu Đình Vũ-Cát Hải, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện (Cát Hải); đầu tư đường sắt cao tốc Hà Nội-Hải Phòng; đầu tư tuyến đường ven biển, đầu tư phát triển đảo Bạch Long Vỹ: giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành liên quan xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
b) Về nâng cấp sân bay Cát Bi thành sân bay quốc tế: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành liên quan khẩn trương thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lưu ý xem xét khả năng đầu tư của Cụm cảng hàng không miền Bắc.
c) Về mở Hãng hàng không tư nhân: cần nghiên cứu thận trọng. Để giải quyết ách tắc, trước mắt Thành phố nên phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Cục hàng không Việt Nam bàn việc mở thêm đường bay nước ngoài trong khi Hãng hàng không Việt Nam chưa kịp mua thêm máy bay. Hạ tầng đô thị Bắc sống Gấm cần tính phương án huy động vốn FDI đầu tư và cho thuê lại.
d) Về đề nghị bố trí bổ sung vốn đầu tư cho một số dự án, công trình như: đường 353, dự án đô thị Ngã Năm-sân bay Cát Bi, dự án đường Lạch Tray-Hồ Đông, xây dựng hạ tầng quận mới Hải An, dự án xây dựng và mở rộng trường Đại học Hải Phòng; Bệnh viện Việt-Tiệp, dự án hạ tầng khu đô thị mới Bắc sông Cấm; các dự án hạ tầng kinh tế-xã hội khu du lịch Đồ Sơn, Cát Hải và Bạch Long Vỹ; khu liên hợp thể thao, các công trình văn hóa (quần thể Dương kinh nhà Mạc, tháp Tường Long, khu Quảng Trường và tượng đài Hồ Chí Minh, khu tượng đài kỷ niệm chiến thắng Cát Bi): giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét rà soát, ưu tiên thứ tự dự án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định theo hướng ngân sách nhà nước chủ yếu hỗ trợ theo Chương trình, mục tiêu.
đ) Về đầu tư cơ sở hạ tầng các quận, huyện, xã, phường mới thành lập và các quận chuẩn bị được thành lập: Thành phố làm việc cụ thể với các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.