Quyết định 81/2008/QĐ-UBND về đề án tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2009 - 2010

Số hiệu 81/2008/QĐ-UBND
Ngày ban hành 25/12/2008
Ngày có hiệu lực 04/01/2009
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Người ký Võ Thành Kỳ
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 81/2008/QĐ-UBND

Vũng Tàu, ngày 25 tháng 12 năm 2008

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH ĐỀ ÁN TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU GIAI ĐOẠN 2009 - 2010

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004;

Căn cứ Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình;

Căn cứ Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình;

Căn cứ Chỉ thị số 12-CT/TU của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 21 tháng 11 năm 2006 về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2006 - 2010;

Căn cứ Nghị quyết số 30/2008/NQ-HĐND ngày 05 tháng 12 năm 2008 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc ban hành đề án tiếp tục thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2009 - 2010;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Y tế tỉnh tại Tờ trình số 2319/TTr-SYT ngày 19 tháng 12 năm 2008 về việc đề nghị phê duyệt đề án tiếp tục thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2009 - 2010,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Nay ban hành kèm theo Quyết định này đề án tiếp tục thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2009 - 2010.

Điều 2. Giao cho Sở Y tế chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành có liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày, kể từ ngày ký.

Điều 4. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc các Sở: Y tế, Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục và Đào tạo, Tư pháp; Thủ trưởng các ban, ngành, đoàn thể, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố có trách nhiệm thi hành./.

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Võ Thành Kỳ

 

ĐỀ ÁN

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU GIAI ĐOẠN 2009 - 2010.
( Ban hành kèm theo Quyết định số 81/2008/QĐ-UBND ngày 25 tháng 12 năm 2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)

I. THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH HIỆN NAY CỦA TỈNH:

1. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đã được khống chế nhưng qui mô dân số của tỉnh tiếp tục tăng bình quân 15.000 người mỗi năm:

Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong các tỉnh có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thấp của cả nước và tỉnh đã đạt được mức sinh thay thế (có nghĩa bình quân mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2001 của tỉnh là 1,47% và đến năm 2008 ước thực hiện là 1,18%, bình quân tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thời gian qua giảm 0,04%/năm

Năm 2001 dân số trung bình của tỉnh là 841.500 người và đến năm 2008 ước tính dân số trung bình là 995.000 người. Như vậy bình quân mỗi năm toàn tỉnh tăng thêm khoảng 15.000 người. Do tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thấp nên số người tăng thêm hàng năm của tỉnh chủ yếu là tăng cơ học. Các đối tượng di dân tự do rất khó quản lý nên đây vừa là một thế mạnh của tỉnh thu hút nhân lực vào các khu công nghiệp nhưng cũng là một gánh nặng trong công tác quản lý dân số-kế hoạch hóa gia đình.

2. Mức sinh hàng năm của tỉnh đều giảm nhưng chưa thật sự vững chắc và còn tiềm ẩn nguy cơ mức sinh tăng trở lại:

Tỷ suất sinh của tỉnh năm 2001 là 18,18 ‰ và ước tính năm 2008 sẽ là 15,8 ‰. Như vậy với nỗ lực của các cấp các ngành, tỷ suất sinh hàng năm của tỉnh đều giảm. Tuy nhiên nếu theo dõi mức giảm sinh những năm gần đây của tỉnh sẽ thấy có những giai đoạn chúng ta giảm nhanh và có giai đoạn mức giảm sinh bị chững lại. Cụ thể trước năm 2003, mức giảm sinh mỗi năm bình quân là 0,5‰, đến năm 2003 Pháp lệnh Dân số được ban hành và giai đoạn đầu do sự hiểu lệch lạc nội dung của Pháp lệnh Dân số đã làm cho mức giảm sinh chững lại và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên tăng đột biến. Với sự chỉ đạo kiên quyết của cấp ủy và chính quyền trong 2 năm 2004 và 2005 và nhất là sự ra đời của Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình đã kiềm chế mức sinh. Tỷ suất sinh trong 3 năm 2005 - 2007 đã giảm bình quân 0,3 phần ngàn/năm. Tuy nhiên đến năm 2008, với sự biến động bộ máy quản lý chương trình dân số-kế hoạch hóa gia đình các cấp và sự lơi lỏng trong công tác chỉ đạo của một số địa phương, một lần nữa mức sinh có chiều hướng gia tăng và năm 2008 tỉnh có khả năng chỉ giảm được 0,22 phần ngàn so với chỉ tiêu kế hoạch giao là 0,3 phần ngàn.

Song song với tỷ suất sinh là tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên cũng dao động “lên, xuống”. Đặc biệt trong hai năm 2003 - 2004 có sự tăng tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên đột biến trong một số bộ phận đảng viên, cán bộ, viên chức và đã ảnh hưởng đến phong trào thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Giai đoạn 2001 - 2003 tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên hàng năm đều giảm bình quân 1% nhưng đến năm 2003 -2004 đã chững lại và sau đó chỉ giảm bình quân mỗi năm 0,5%. Đặc biệt năm 2008 khả năng tỉnh giảm được 0,4% so với kế hoạch giao là giảm 0,5%.

Như vậy, mặc dù tỉnh đã đạt mức sinh thay thế nhưng mức giảm sinh của tỉnh hiện nay chưa thật sự bền vững. Nếu không có những giải pháp tích cực sẽ xuất hiện tình trạng tăng sinh trở lại và cơ cấu dân số sẽ tăng trong những năm tới. Kết quả giảm sinh hàng năm không thực sự bền vững và điều này thể hiện rõ nhất mỗi khi có những yếu tố không tốt tác động thì mức sinh của tỉnh lại có chiều hướng giảm chậm và tỷ lệ sinh con thứ ba tăng lên.

[...]