QUY ĐỊNH
VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY RỪNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 629/1999/QĐ-UB ngày 23/3/1999 của Uỷ ban
Nhân dân tỉnh)
Chương I
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 1: Quy định này quy định những yêu cầu
về nghiệp vụ kỹ thuật, các tiêu chuẩn, biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng áp
dụng cho các đối tượng rừng trong toàn Tỉnh.
Điều 2: Ngành Kiểm lâm căn cứ vào tình
hình diễn biến thời tiết hàng ngày và hàng tuần trong mùa khô hanh, để dự báo
cháy rừng theo phương pháp tổng hợp, thông tin dự báo cháy rừng trên các phương
tiện thông tin đại chúng và liên lạc báo cáo từ tỉnh đến huyện, xã, thôn, xóm,
các đơn vị kinh doanh trong năm, nhất là mùa khô từ tháng 9 đến tháng 4 năm
sau.
Điều 3: Ngành kiểm lâm và chính quyền các
cấp huyện, xã, thôn, xóm, các doanh nghiệp, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
(gọi chung là chủ rừng), các cơ quan đơn vị căn cứ Quy định này để chỉ đạo thực
hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng trong phạm vi thuộc đơn vị, địa phương
mình quản lý.
Điều 4: Ngành Kiểm lâm và các chủ rừng
căn cứ vào từng trường hợp cụ thể ở cơ sở mà áp dụng kỹ thuật xây dựng băng trắng,
băng xanh, qui vùng sản xuất nương rẫy, chòi canh, xử lý thực bì làm giảm vật
liệu cháy, xây dựng hệ thống thông tin trong các cộng đồng dân cư về phòng
cháy, chữa cháy rừng.
Chương II
PHÒNG CHÁY RỪNG
Mục I: Tổ chức lực lượng
phòng cháy, chữa cháy rừng.
Điều 5: Ngành Kiểm lâm tham mưu giúp Uỷ
ban Nhân dân tỉnh, Uỷ ban Nhân dân các huyện, thị xã, thành phố (gọi chung là
huyện) và các xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã) thành lập ban chỉ đạo
phòng cháy, chữa cháy rừng do chủ tịch hoặc phó chủ tịch làm trưởng ban, kiểm
lâm làm phó ban thường trực, đại diện các ngành hữu quan tham gia làm uỷ viên,
xây dựng phương án chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc việc phòng cháy, chữa cháy rừng ở
cơ sở, nhất là trong suốt mùa khô hanh, đặc biệt là ở các vùng trọng điểm.
Điều 6: 1/ Lực lượng kiểm lâm ở Hạt,
Đội kiểm lâm cơ động ở vùng trọng điểm, vào thời kỳ cao điểm dễ xẩy ra cháy rừng
phải được tổ chức thành các nhóm công tác từ 2-3 người, có nhóm trưởng. Từ 3-5
nhóm họp thành một tổ, do tổ trưởng phụ trách. lực lượng này được triển khai đến
tận thôn, xóm, hướng dẫn các hộ gia đình ký cam kết thực hiện nội qui, qui ước
phòng cháy, chữa cháy rừng thuộc diện tích các chủ rừng quản lý bảo vệ. Thành lập
các tổ, đội tình nguyện bảo vệ rừng ở cơ sở từ 15 đến 20 người để cùng với lực
lượng kiểm lâm đặc trách phòng cháy, chữa cháy rừng ở địa phương và ở từng vùng
trọng điểm.
2/ ở thôn, xóm lập tổ, đội tình nguyện bảo vệ rừng
gồm 15-20 người, ở các nông lâm trường, đơn vị vũ trang ở trong rừng và ven rừng
có 15-30 người. Lực lượng này phải được trang bị các dụng cụ, phương tiện phòng
cháy, chữa cháy rừng và được huấn luyện nghiệp vụ kỹ thuật cùng lực lượng kiểm
lâm thường xuyên tuần tra, kiểm soát, canh gác diện tích rừng được giao.
Điều 7: Hàng năm dưới sự chỉ đạo của Uỷ
ban Nhân dân tỉnh, ngành Kiểm lâm phải có kế hoạch cụ thể mở các đợt tuyên truyền
giáo dục dưới nhiều hình thức phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng địa
phương và hướng dẫn các chủ rừng phòng cháy, chữa cháy rừng trong phạm vi mình
quản lý.
Mục II: Dự báo cháy rừng theo
phương pháp tổng hợp và thông tin cấp dự báo cháy rừng.
Điều 8: Để chủ động phòng cháy, chữa cháy
rừng có hiệu quả. Chi cục kiểm lâm phối hợp với Trung tâm bảo vệ rừng số I của
Bộ, đài khí tượng thuỷ văn tỉnh tiến hành dự báo cháy rừng theo phương pháp tổng
hợp trong mùa khô hanh bao gồm 4 nội dung sau:
1/ Xây dựng trạm dự báo cháy rừng để đo, tính
các nhân tố môi trường liên quan đến vật liệu cháy hàng ngày và dài ngày ( tuần
khí tượng do đài khí tượng thuỷ văn tỉnh cung cấp).
2/ Xác định thời kì dễ phát sinh cháy rừng, phục
vụ cho việc lập kế hoạch phòng cháy và chữa cháy rừng.
3/ Đo tính chỉ tiêu cấp dự báo cháy rừng hàng
ngày và dài ngày theo 5 cấp (từ cấp 1 đến cấp 5).
4/ Phải đảm bảo thông tin thông suốt dự báo cháy
rừng trên các phương tiện thông tin đại chúng trong mùa khô trên qui mô toàn tỉnh.
Điều 9: Xây dựng hệ thống trạm dự báo
cháy rừng gồm trạm chính và các trạm phụ, bố trí lực lượng dự báo và thông tin
cấp cháy.
- Trạm chính: Hàng ngày đo 3 lần vào 7 giờ, 13
giờ, 19 giờ; đo và vào sổ sách các số liệu: nhiệt độ, độ ẩm không khí, độ ẩm vật
liệu cháy, độ ẩm đất, tốc độ gió, lượng mưa... để tính toán và thông tin cấp
cháy rừng hàng ngày cho các cơ sở có biện pháp phòng và sẵn sàng chữa cháy.
Trạm phụ: đặt ở các hạt kiểm lâm, các lâm trường
có nhiệm vụ đo bổ sung các yếu tố: lượng mưa, nhiệt độ lúc 13 giờ, vật liệu
cháy... để bổ sung số liệu cấp cháy cho trạm chính, góp phần nâng cao độ chính
xác về dự báo cho toàn vùng.
Điều 10: Khi dự báo ở cấp 1 (ít có khả
năng cháy rừng). Hạt kiểm lâm phối hợp với uỷ ban nhân dân các xã và các chủ rừng
xây dựng phương án phòng cháy, chữa cháy rừng, tuyên truyền giáo dục trong cộng
đồng dân cư về phòng cháy, chữa cháy rừng và hướng dẫn phát, dọn nương rẫy đúng
kỹ thuật.
Điều 11: Khi dự báo đến cấp 2 (có khả
năng cháy rừng): Hạt kiểm lâm phối hợp với uỷ ban nhân dân các xã và các chủ rừng
tăng cường kiểm tra, đôn đốc, bố trí người canh gác, chuẩn bị lực lượng và
phương tiện thường trực sẵn sàng đập tắt lửa khi mới xảy ra cháy rừng. Dự báo
viên tiếp tục đo tính và thông báo cấp cháy kịp thời trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Điều 12: Khi dự báo đến cấp 3 (dễ xảy ra
cháy rừng): Hạt kiểm lâm phối hợp với Uỷ ban Nhân dân các xã tăng cường đôn đốc
các chủ rừng chú trọng việc phòng cháy, cấm phát, đốt rừng làm nương rẫy, tổ chức
lực lượng thường xuyên canh phòng nhất là vùng rừng trọng điểm dễ cháy như: rừng
trồng, rừng non tái sinh, rừng thông và rừng thông đang khai thác nhựa, rừng có
nhiều cỏ tranh, cây bụi, lau, sậy, le, dây leo..
- Lực lượng canh phòng phải trực trên chòi canh,
trên các trạm gác 10/24 giờ trong ngày (từ 10 giờ đến 20 giờ).
- Khi phát hiện có cháy rừng nhân viên gác rừng
gõ kẻng báo động và báo cáo khẩn cấp cho Hạt kiểm lâm, Uỷ ban nhân dân xã huy động
mọi lực lượng, phương tiện tham gia chữa cháy kịp thời.
Điều 13: Khi dự báo cháy rừng đến cấp 4
(cấp nguy hiểm), thời tiết hanh khô kéo dài có nguy cơ xảy ra cháy rừng, hạt kiểm
lâm tham mưu cho uỷ ban nhân dân huyện chỉ đạo các xã củng cố lực lượng, khẩn
trương triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy rừng.
- Lực lượng kiểm lâm và các chủ rừng phải kiểm
tra nghiêm ngặt trên các vùng trọng điểm dễ cháy rừng.
- Lực lượng canh phòng phải thường xuyên gác
trên chòi canh, tuần tra ngoài hiện trường rừng dễ cháy đảm bảo 12/24 giờ (từ
10 đến 22 giờ) trong ngày, nhất là các giờ cao điểm (từ 11 giờ đến 17 giờ),
phát hiện kịp thời điểm cháy, báo động và huy động lực lượng, phương tiện dập tắt
ngay, không được để lửa lan tràn rộng.
- Dự báo viên phải nắm chắc tình hình khí tượng
thuỷ văn để dự báo cấp cháy và thông tin kịp thời tới các Ban chỉ đạo phòng cháy,
chữa cháy rừng.
Điều 14: Khi dự báo đến cấp 5 (cấp cực kỳ
nguy hiểm), thời tiết khô hạn kéo dài, có khả năng cháy lớn và lan tràn nhanh;
Uỷ ban Nhân dân các huyện trực tiếp chỉ đạo Hạt kiểm lâm và các xã kiểm tra đôn
đốc tới các chủ rừng triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy. Kiểm tra chặt
chẽ không cho người và phương tiện ra vào rừng tuỳ tiện. Nghiêm cấm tuyệt đối
việc dùng lửa trong rừng và ven rừng đối với người ra vào rừng.
- Lực lượng canh phòng trên các chòi canh và các
vùng trọng điểm dễ cháy phải đảm bảo trực 24/24 giờ trong ngày.
- Khi xảy ra cháy rừng, Uỷ ban Nhân dân các cấp
có quyền huy động mọi lực lượng, phương tiện cần thiết, cùng với lực lượng Kiểm
lâm và chủ rừng để dập tắt ngay. Tất cả các vụ cháy rừng đều phải lập biên bản
tìm nguyên nhân, thủ phạm và có biện pháp xử lý nghiêm.
Điều 15: Trong mùa khô hanh phải duy trì
sự hoạt động của các ban chỉ đạo phòng cháy, chữa cháy rừng các cấp, hệ thống
thông tin liên lạc phải được thông suốt.
Mục III: Xây dựng hệ thống đường
băng cản lửa
Điều 16: Băng trắng và băng xanh nhằm
ngăn cách, hạn chế lửa lan rộng ra xung quanh và phân chia khu rừng dễ cháy
thành những lô, khoảnh.
Điều 17: Các chủ rừng khi thiết kế trồng
rừng nhất thiết phải thiết kế thi công hệ thống đường băng trắng hoặc băng xanh
gắn với quy hoạch xây dựng hệ thống đường giao thông trong các khu rừng. Nếu độ
dốc trên 25 độ thì không được làm băng trắng mà phải trồng cây xanh trên băng
cùng với việc trồng rừng ngay năm đó, không được để đất trống gây xói mòn, rửa
trôi, phá vỡ cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường.
Điều 18: Nguyên tắc làm đường băng trắng:
Chỉ áp dụng đối với các loại rừng trồng mới và những rừng thông già đang khai
thác nhựa. Khi xây dựng bằng trắng phải chặt bỏ cây cỏ, lau, sậy tạp bụi, chỉ để
lại những cây lá rộng có khả năng ngăn lửa. Năm sau phải tiến hành trồng các
loài cây khó cháy để tạo thêm băng xanh hỗn giao.
Điều 19: Nguyên tắc làm đường băng xanh:
Phải xây dựng hệ thống đường băng xanh bằng những loài cây khó cháy; Chỉ áp dụng
cho các khu rừng trồng mới và cũ dễ xảy ra cháy rừng.
Điều 20: Độ rộng của đường băng được quy
định cho cả băng trắng, băng xanh là 10-15m, đối với rừng trồng đã khép tán và
rừng tự nhiên độ rộng của đường băng phải lớn hơn chiều cao cây rừng.
Điều 21: Loài cây trồng trên băng cản lửa:
Lựa chọn tập đoàn cây bản địa (cây lá rộng), cây chứa nhiều nước, có khả năng
chịu nhiệt độ cao, vỏ dầy, không rụng lá trong mùa khô, cây có sức tái sinh hạt
và chồi mạnh, sinh trưởng phát triển nhanh để tạo thành đai rừng phòng cháy rừng.
Mục IV: Xây dựng chòi canh
gác lửa rừng.
Điều 22: Nguyên tắc bố trí chòi canh:
a) Chòi canh phải đặt ở vị trí có tầm nhìn xa nhất
(tối thiểu 10-15 km) để dễ dàng phát hiện các đám khói hoặc lửa cháy mới xuất
hiện, đánh kẻng báo động cháy rừng và huy động kịp thời lực lượng, phương tiện
đến dập lửa rừng không để lửa cháy lan.
b) Chòi canh phải có độ cao hơn chiều cao của
cây rừng.
Chòi gác lửa: Đặt ở vị trí trung tâm của khu rừng
dễ cháy, tầng trên có tầm nhìn xa 10 -15 km, làm chòi bằng sắt hoặc nguyên liệu
bền chắc sẵn có ở địa phương, đảm bảo sử dụng lâu bền (theo mẫu cục Kiểm lâm đã
thiết kế thống nhất trong cả nước).
c) Chòi canh phải đảm bảo an toàn cho việc sử dụng,
khi xây dựng chòi canh phải có thang lên xuống, xung quanh chân chòi phải dọn sạch
cây trong phạm vi bán kính 20-30 m, có một gian nhà 4 cửa để quan sát 4 phía,
có bản đồ khu vực rừng cần bảo vệ, ống nhòm, kẻng báo động, cờ hiệu, bộ đàm,
thông tin về các đám khói và cháy rừng, có thu lôi chống sét, có phòng ở tầng
dưới cho nhân viên nghỉ ngơi thay nhau gác.
Điều 23: Tổ chức hoạt động ở chòi canh :
Mỗi chòi có 3 người thay nhau làm việc. Vào thời
kỳ cao điểm dễ xảy ra cháy rừng trong mùa khô, chòi canh phải có người làm việc
thường xuyên đảm bảo 24/24 giờ/ngày. Khi nhân viên quan sát phát hiện thấy các
đám khói và cháy rừng phải xác định rõ toạ độ, mức độ quy mô, báo cáo ngay về
trung tâm chỉ huy và báo động để huy động kịp thời lực lượng phương tiện đến dập
tắt lửa, không để lửa cháy và lan tràn lớn.
Mục V: Biện pháp kỹ thuật xử
lý thực bì làm giảm vất liệu cháy rừng
Điều 24: Dọn thực bì:
Hàng năm trước khi bước vào đầu mùa khô (từ cuối
tháng 8 đầu tháng 9) ở những khu rừng dễ cháy (rừng trồng), dưới sự hướng dẫn
chỉ đạo kỹ thuật nghiệp vụ của Kiểm lâm, chủ rừng phải thực hiện dọn thực bì
theo dải, theo băng rộng từ 10-15 m dọc các đường lô, khoảnh, tiểu khu.
Mục V: Bảo vệ rừng trong sản
xuất nương rẫy
Điều 25: Quy vùng đất đai làm nương rẫy.
a) Đối với đồng bào cư trú trên các vùng cao,
vùng biên giới thuộc các huyện: Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, Quảng Hà, Hoành Bồ;
Hạt kiểm lâm phải phối hợp với Ban định canh định cư huyện thực hiện tốt việc
quy hoạch vùng đất lâm nghiệp tạm thời để làm nương rẫy cho dân. Phải thực hiện
đúng quy hoạch, phân vùng vạch rõ ranh giới, có cọc mốc ngoài thực địa, lập bản
đồ quy hoạch phân loại đất đai dành cho sản xuất nương rẫy đến tận thôn, bản,
xóm, hộ gia đình.
b) Trong những diện tích được phép sản xuất
nương rẫy: Hạt kiểm lâm phải hướng dẫn đồng bào về kỹ thuật phát dọn thực bì và
làm đường bằng cản lửa. Khi tiến hành đốt thực bì, yêu cầu đốt vào lúc gió nhẹ
theo hướng ngược chiều gió để tránh cháy lan ra rừng xung quanh.
c) Khi đốt thực bì phải có người canh gác, cứ 10
đến 15 m phải có một người canh gác trên băng không để lửa cháy lan vào rừng.
Khi đốt phải báo cáo với ban lâm nghiệp xã và tổ đội bảo vệ rừng của thôn, bản,
đốt xong phải kiểm tra toàn bộ cho đến khi lửa tắt hẳn mới ra về.
Điều 26: Phải kết hợp chặt chẽ giữa qui
vùng sản xuất nông nghiệp trên đất rừng với giao khoán rừng, định canh định cư,
thâm canh nương rẫy cũ, xây dựng kinh tế vườn đồi, trang trại đến hộ gia đình
theo mô hình RVAC, xây dựng ruộng bậc thang chống xói mòn đất, bảo vệ rừng, đảm
bảo an toàn về phòng chống cháy rừng trong suốt mùa hanh khô. Hàng năm vào thời
kỳ từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau các hạt kiểm lâm phải tăng cường kiểm tra hướng
dẫn đồng bào làm nương đúng kỹ thuật trên những vùng đất đai đã được quy hoạch
không để đồng bào phát đốt rừng trái phép để làm nương rẫy.
Chương III
CHỮA CHÁY RỪNG
Điều 27: Phát hiện cháy và huy động lực
lượng chữa cháy: Khi phát hiện cháy rừng, Uỷ ban Nhân dân xã, Hạt Kiểm lâm sở tại
và các chủ rừng phải huy động kịp thời lực lượng, phương tiện tại chỗ, sử dụng
cuốc, xẻng, cào, dao, cành cây xanh... để làm dụng cụ dập lửa không để lửa cháy
tràn lan.
Điều 28: Biện pháp giới hạn đám cháy:
Trong điều kiện thời tiết khô hạn, độ ẩm vật liệu
dưới 20%, khi cháy rừng phải:
Phát tạo ngay băng trắng đón đầu ngọn lửa theo một
cự ly phù hợp, thi công xong trước khi lửa tràn đến. Trên băng phải dọn vật liệu
cháy ra phía ngoài ngọn lửa cháy tới. Mặt khác phải dùng cây xanh dập lửa là có
hiệu quả nhất và không tốn kém.
Điều 29: An toàn lao động khi chữa cháy:
a) Khi chữa cháy, lực lượng chữa cháy phải: Được
trang bị dụng cụ bảo hộ lao động như giày, dụng cụ dập lửa rừng là dao, cuốc, xẻng
và cành cây xanh. Trường hợp người tham gia dập lửa rừng mà bị thương phải được
đưa đi cấp cứu kịp thời. Nếu bị thương nặng hoặc tử vong phải lập biên bản để
giải quyết chính sách chế độ.
b) Lực lượng chữa cháy phải được tập huấn nghiệp
vụ, khi chữa cháy phải được bố trí theo tổ, nhóm có người điều hành thống nhất,
có bộ đàm chỉ huy. Nếu chữa cháy bằng hoá chất, bằng cơ giới phải thực hiện các
thao tác đúng kỹ thuật, an toàn lao động. Phải có chế độ bồi dưỡng vật chất và
khen thưởng cho người tham gia chữa cháy.
c) Nguyên tắc bố trí lực lượng, phương tiện khi
chữa cháy:
Nếu ngọn lửa cháy về cả 2 phía trái và phải thì
đội hình chữa cháy phải bố trí thành từng nhóm gồm 8 đến 10 người, lực lượng chữa
cháy tiến từ phía trước đám cháy về cả hai phía trái và phải, dùng nước hoặc đất,
cát, hoá chất hay, cành cây tươi dập lửa, bao vây không cho lửa lan tràn. Đội
hình bao vây khép kín về phía đầu ngọn lửa và dập cho đến khi ngọn lửa tắt hẳn.
- Sử dụng các dụng cụ chữa cháy như: cào, cuốc,
xẻng, dao, bình xịt đeo vai, xe ô tô, mìn định hướng, lựu đạn chữa cháy, máy
bay, xe ủi, lợi dụng nguồn nước, đất, cát hoặc hoá chất như P2O5, K2PO4, H3PO4,
CO2 để làm giảm các yếu tố tham gia quá trình cháy: vật liệu, ô xy và nhiệt.
Chương IV
KINH PHÍ PHÒNG CHÁY, CHỮA
CHÁY RỪNG
Điều 30: Hàng năm Chi cục Kiểm lâm căn cứ
vào Thông tư liên Bộ số 06/TT-LB ngày 22/1/1996 của Bộ Tài chính và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn "Về hướng dẫn lập kế hoạch quản lý, cấp
phát, quyết toán kinh phí cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng" có
trách nhiệm phối hợp với các ngành có liên quan lập dự toán kinh phí phòng
cháy, chữa cháy rừng trên toàn tỉnh, gửi Sở Tài chính - Vật giá để tổng hợp báo
cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét và trình Hội đồng Nhân dân tỉnh phê duyệt.
Điều 31: Hàng năm các chủ dự án, Lâm trường
và chủ rừng cũng phải trích một số kinh phí từ các nguồn đầu tư phát triển,
khoanh nuôi bảo vệ, tái sinh rừng và nguồn lợi từ rừng để chi cho công tác
phòng cháy, chữa cháy rừng trực tiếp tại đơn vị mình quản lý.
Chương V
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI
PHẠM
Điều 32: Tổ chức, cá nhân có thành tích
xuất sắc trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng và phát hiện, truy tìm thủ phạm
gây cháy rừng; thì được khen thưởng và hưởng các chế độ chính sách theo quy định
hiện hành.
Điều 33: 1/ Các tổ chức, cá nhân vi phạm
vào việc gây hậu quả cháy rừng thì tuỳ theo mức độ mà bị xử phạt hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2/ Các chủ rừng, nếu để rừng bị cháy do không thực
hiện đầy đủ các nội dung trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng theo quy định
này thì tuỳ theo mức độ thiệt hại mà bị xử lý theo pháp luật.
Chương VI
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 34: 1/ Chi cục Kiểm lâm căn cứ vào
chức năng nhiệm vụ của mình phối hợp với các ngành: Công an, Viện Kiểm sát, Toà
án, Chi cục Phát triển lâm nghiệp và chính quyền địa phương tổ chức chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra, giám sát các cơ sở trong quá trình thực hiện Quy định này.
2/ Những vụ cháy rừng xẩy ra ở địa phương, Kiểm
lâm sở tại phải chủ động phối hợp với các ngành chức năng điều tra, xác minh,
tìm nguyên nhân, tìm thủ phạm gây cháy; lập biên bản, có biện pháp xử lý nghiêm
và phải báo cáo về cấp trên theo mẫu thống nhất.
Điều 35: Trong qúa trình thực hiện nếu có
gì vướng mắc yêu cầu các ngành, Uỷ ban Nhân dân các địa phương phản ánh kịp thời
về Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét giải quyết./.