THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 307-TTg
|
Hà Nội, ngày 24
tháng 5 năm 1995
|
QUYẾT
ĐỊNH
PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM THỜI
KỲ 1995 - 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét Tờ trình số 377/TCDL ngày 24 tháng 4 năm 1995 của Tổng cục Du lịch,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 -
2010" số 377/TCDL ngày 24 tháng 4 năm 1995 của Tổng cục Du lịch.
Điều 2.
Căn cứ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội, những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện, đặc điểm và tiềm năng du lịch của mỗi
vùng, mỗi địa phương, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
với phạm vi, trách nhiệm được giao, tổ chức và chỉ đạo việc triển khai
"Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010"
trong các kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, cũng như các đề án quy hoạch
phát triển du lịch cụ thể.
Điều 3.
Giao Tổng cục Trưởng Tổng cục Du lịch chủ trì, phối hợp với Chủ nhiệm Uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước và Bộ trưởng các Bộ: Xây dựng, Giao thông vận tải, Văn hoá -
Thông tin và các ngành, cơ quan chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công
tác quy hoạch và phát triển du lịch phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của mỗi tỉnh, mỗi vùng, trong một thể thống nhất của cả nước, nhất là ở
những địa phương có Trung tâm, khu du lịch lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Điều 4.
Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ
ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi
hành Quyết định này.
QUY HOẠCH TỔNG THỂ
CỦA TỔNG CỤC DU LỊCH SỐ 377/TCDL NGÀY 24 THÁNG 4 NĂM 1995
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 - 2010
I - BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN:
Nằm ở khu vực Đông Nam á - một
khu vực đang diễn ra những hoạt động du lịch sôi động, Việt Nam có một vị trí địa
lý kinh tế và giao lưu quốc tế thuận lợi để sớm hoà nhập với trào lưu phát triển
du lịch của khu vực và thế giới.
1. Đầu tư phát triển du lịch Việt
Nam là phù hợp với xu thế chung, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trên phạm vi thế giới, du lịch
đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội và phát triển
với tốc độ ngày càng nhanh.
Trong vòng 30 năm (1960 - 1991)
số khách du lịch trên thế giới tăng khoảng 64 lần, thu nhập từ du lịch đã tăng
khoảng 38 lần. Với nguồn thu nhập gia tăng như vậy nhiều nước như Singapore,
Thái Lan, Malaysia... đã coi du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, hướng chủ
yếu trong chiến lược khai thác tiềm năng, tạo việc làm, mở rộng giao lưu để
phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Hiện nay, nhịp độ tăng trưởng về
số khách quốc tế và thu nhập từ du lịch của khu vực Đông á - Thái Bình Dương
thuộc loại hàng đầu thế giới. Dự kiến đến năm 2010 khoảng 72 triệu người; thu
nhập từ du lịch tăng khoảng 15,6%. Vai trò, vị trí của ngành du lịch trong nền
kinh tế quốc dân cũng ngày càng tăng và được khẳng định.
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên
hiện có và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta
hoàn toàn có đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển, sớm đưa du lịch của nước
ta hoà nhập vào trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới.
2. Tiềm năng du lịch của nước ta
phong phú, đa dạng:
Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc
tế, Việt Nam có điều kiện để phát triển giao thông cả về đường bộ, đường sắt,
đường biển, đường hàng không nối với các quốc gia trên thế giới.
Tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng,
giầu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, nước nóng, nước khoáng, đảo,
lớp phủ thực vật và thế giới động vật quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc
đáo điển hình...) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trức, những
phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc...)
tạo điều kiện cho chúng ta phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú, hấp dẫn
như: nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival...
dài ngày và ngắn ngày.
Tài nguyên du lịch nước ta được
phân bố thành từng cụm hình thành các môi trường du lịch điển hình trong toàn
quốc. Mỗi vùng, mỗi khu vực du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du
lịch xuyên quốc gia, không lập lại giữa các vùng làm nhàm chán khách du lịch.
Những tài nguyên du lịch này nhằm gắn các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan
trọng thuận lợi cho việc đi lại, tham quan và ăn nghỉ của du khách. Nhiều vùng
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú,
Hoà Bình..., vùng biển Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn (Quảng Ninh - Hải Phòng) vùng
Đại Lãnh - Văn Phong, Nha Trang (Khánh Hoà), đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Huế -
Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng - Đà Lạt và vùng đồng bằng Châu thổ
sông Cửu Long..., nếu được qui hoạch và đầu tư thích đáng sẽ trở thành những
trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực và
thế giới.
Trong tương lai không xa, việc nối
tour du lịch đường bộ tới Malaysia - Singapore và Myanma với tuyến du lịch Đông
Dương (Việt Nam - Lào - Cămpuchia) thực sự sẽ khép kín lộ trình của khách du lịch
quốc tế ở Đông Nam á và sẽ tạo ra tuyến du lịch hấp dẫn trong khu vực, mở ra
cho nước ta nhiều cơ hội để khai thác và phát triển du lịch với các hình thức hấp
dẫn theo phong cách và truyền thống văn hoá Việt Nam.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan, du lịch Việt Nam còn kém phát triển. Nếu so sánh với 5
nước Đông Nam á trong cùng thời điểm năm 1988, Việt Nam chỉ đón lượng khách du
lịch quốc tế bằng 1/10 Philippines, 1/5 Indonesia và xấp xỉ 1/40 Malaysia, Thái
Lan hoặc Singapare.
Mấy năm gần đây, nhờ sự nghiệp đổi
mới đất nước thu được kết quả quan trọng: kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định,
đường lối ngoại giao đa dạng hoá, đa phương hoá, Ngành Du lịch Việt Nam có những
bước tiến bộ. Nhịp độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hàng năm đạt
trên dưới 40%. Năm 1990 Việt Nam mới đón 250.000 khách quốc tế thì năm 1994 đã
đạt trên 1.000.000, thu hẹp dần khoảng cách đón khách quốc tế so với năm nước
Đông Nam á. Số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 1994 đã bằng 2/3 số khách
du lịch quốc tế đến Philippines, bằng 1/4 Indonesia và xấp xỉ bằng 1/6 số khách
du lịch quốc tế đến Thái Lan, Singapore hoặc Malaysia.
Lực lượng lao động trực tiếp
trong ngành Du lịch tăng nhanh (năm 1992 có 21.510 lao động trong khu vực Nhà
nước, đến năm 1993 đã có 36.851 lao động, tăng 72% so với năm 1992). Nhìn chung
lao động trong Ngành Du lịch chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ một cách hệ
thống. Một số liên doanh đã tự tào tạo dưới hình thức tại chỗ hoặc ở nước
ngoài. Hiện nay đã có những mạng lưới đào tạo du lịch từ công nhân kỹ thuật đến
đại học, tuy nhiên còn thiếu những cơ sở đào tạo có qui mô hiện đại để đáp ứng
yêu cầu phát triển của ngành.
Kết cấu hạ tầng tuy đã có những
bước phát triển nhất định, song nhìn chung còn ở tình trạng thấp kém, chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển du lịch. Hiện nay việc phát triển du lịch ở nước ta còn phân
tán và đơn điệu, mới chỉ tập trung vào việc xây dựng khách sạn. Việc xây dựng
các khu du lịch, các khách sạn chưa được tính toán kỹ lưỡng, cả về qui hoạch và
thiết kế nên dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, nhiều nơi, đặc biệt là ở các
vùng ven biển, vùng có khả năng xây dựng phát triển các loại hình du lịch đã
gây nên những tác động tiêu cực đối với cảnh quan, môi trường. Mặt khác, sự chuẩn
bị để hoà nhập với du lịch thế giới về nhận thức, tổ chức bô máy, con người, cơ
sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm và hiểu biết về quản lý điều hành du lịch
chưa dáp ứng yêu cầu, có mặt chưa tốt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành
trong quản lý, thúc đẩy phát triển du lịch chưa chặt chẽ, trong khi sự cạnh
tranh du lịch trong vùng lại ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa sự tăng
trưởng khách du lịch với năng lực phục vụ như: khách sạn, cơ sở lưu trú, dịch vụ
kỹ thuật, giữa phát triển du lịch với phát triển kết cấu hạ tầng, giữa mở cửa
thu hút khách với việc bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội đang
là những trở ngại và thách thức đối với ngành Du lịch.
3. Vị trí, vai trò của du lịch
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội:
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
du lịch được xác định là "ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước" (Nghị quyết số 45/CP ngày 22/6/1993 của
Chính phủ) và "là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước" (Chỉ thị số 46/CT-TW ngày
14/10/1994 của Ban Bí thư). Vì vậy đòi hởi mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương
và tổ chức xã hội, với trách nhiệm của mình, trong đó ngành Du lịch là nòng cốt,
phải có nhận thức và tư duy mới, nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của đất nước
để "Phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy
mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta" mà Nghị
quyết lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã đề ra.
Trước tình hình đó, việc xây dựng
chiến lược, qui hoạch phát triển du lịch đã trở nên cấp thiết để đề xuất một sự
tiếp cận quốc gia đối với tương lai phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
II. NHỮNG MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 - 2010:
1. Những mục tiêu:
1.1 Mục tiêu về kinh tế:
Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành
du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
việc làm để bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21, du lịch trở thành một ngành
công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước.
1.2 Mục tiêu an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội:
Qui hoạch phát triển du lịch nhằm
thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, nhưng không làm
phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
1.3 Mục tiêu về môi trường:
Qui hoạch du lịch gắn liền với bảo
vệ môi trường sinh thái bền vững, với cơ chế quản lý phù hợp vừa tôn tạo, khai
thác, vừa bảo vệ được các di sản thiên nhiên, cảnh quan, môi trường.
1.4 Mục tiên văn hoá - xã hội:
Qui hoạch du lịch phải gắn liền
với việc giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá, nhân phẩm của con người Việt
Nam; đồng thời khai thác các di sản văn hoá nghệ thuật có giá trị, giầu bản sắc
dân tộc, các di tích lịch sử, công trình văn hoá nổi tiếng, tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm phát triển du lịch và văn hoá có chất lượng cao của các nước, nâng
cao các tiêu chuẩn của ngành để đa dạng hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam. Song
song với phát triển du lịch quốc tế, đẩy mạnh phát triển du lịch trong nước nhằm
đáp ứng nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của nhân dân, góp phần từng bước cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở các vùng xa xôi hẻo
lánh, vùng đồng bào các dân tộc ít người.
1.5 Mục tiêu hỗ trợ phát triển:
Cung cấp thông tin tư liệu, những
định hướng chiến lược cơ bản để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch, xúc tiến, phát
triển, sự phối kết hợp, nghiên cứu, thống kê... giúp cho sự phát triển của
ngành ở Trung ương cũng như địa phương.
Những mục tiêu cụ thể: Qui hoạch
phát triển du lịch Việt Nam, xác định các mục tiêu cho các kế hoạch chỉ đạo
phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến năm 2010, sao cho đến năm 2000
đón 3,5 - 3,8 triệu khách quốc tế và đến năm 2010 khoảng 9 triệu khách quốc tế.
Doanh thu từ du lịch quốc tế (không kể vận chuyển) đạt khoảng 2,60 tỷ USD năm
2000 và khoảng 11,80 tỷ USD năm 2010. Khách du lịch trong nước: 11,0 triệu
khách vào năm 2000 và 25 triệu khách vào năm 2010. Năm 1994 tỷ lệ GDP du lịch mới
chiếm 3,5 % GDP của cả nước. Dự kiến đến năm 2000 sẽ đạt 9,6 và đến năm 2010 là
12%. Nếu tính cả tỷ lệ GDP của ngành Du lịch và các ngành dịch vụ liên quan đến
hoạt động du lịch thì năm 1994 đạt 10,2%. Dự kiến năm 2000 sẽ đạt 18,6% và đến
năm 2010 đạt 27,0% GDP của cả nước.
2. Các chiến lược phát triển du
lịch:
2.1 Chiến lược phát triển nguồn
nhân lực du lịch.
Tổ chức đào tạo lại và đào tạo mới
ngày càng tốt hơn cán bộ công nhân viên của ngành du lịch dưới hình thức tại chỗ,
chính qui ở trong nước và nước ngoài, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của
ngành Du lịch. Chú trọng giáo dục du lịch toàn dân.
2.2 Chiến lược sản phẩm:
Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
sản phẩm du lịch phù hợp với thị trường du lịch. Đối với từng vùng du lịch phải
tạo ra được sản phẩm du lịch đặc thù và phải kết hợp với nước ngoài, nhất là
các nước trong khu vực và các nước có chung biên giới để nối tour du lịch, tạo
thêm khả năng tiêu thụ các sản phẩm du lịch Việt Nam.
Tạo sản phẩm du lịch độc đáo, đặc
trưng giầu bản sắc dân tộc, đặc biệt là các sản phẩm du lịch mang truyền thống
văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán của Việt Nam ... để tạo ưu thế
cạnh tranh, thu hút khách, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường.
Tạo sản phẩm du lịch chuyên đề
như: Du lịch bồi dưỡng sức khoẻ, nghỉ biển, du lịch hang động, du lịch chơi
golf, thể thao, câu cá, sông nước, du lịch cho người ham thích thủ công mỹ nghệ,
làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống
dân tộc, du lịch hội nghị, festival...
2.3 Chiến lược nâng cao chất lượng
các dịch vụ du lịch:
Tăng cường chất lượng dịch vụ
trên cả ba góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi của hàng hoá dịch vụ
và khả năng sẵn sàng phục vụ tiếp đón khách.
2.4 Chiến lược về giữ gìn, tôn tạo
và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường (cả tài nguyên thiên nhiên và tài
nguyên nhân văn).
Tiến hành phân vùng chức năng
trên địa bàn du lịch lớn, xác định các khu vực cần bảo vệ nguyên vẹn, khu vực
qui hoạch dự trữ đất đai, các khu cần phục hồi. Xây dựng qui chế xếp hạng và
khai thác bảo vệ thắng cảnh, tài nguyên du lịch.
2.5 Chiến lược về đầu tư du lịch:
Khuyến kích cả đầu tư nước
ngoài, đầu tư trong nước (cả khu vực Nhà nước lẫn tư nhân), tham gia đầu tư xây
dựng phát triển du lịch theo qui hoạch và có dự án đầu tư cụ thể. Nước ngoài
liên doanh đầu tư các khách sạn lớn, cao cấp, các khu du lịch. Bằng nhiều hình
thức huy động vốn để góp vốn phía Việt Nam trong các liên doanh. Phấn đấu đến
năm 2000 có khoảng 10 -15 dự án khu du lịch được đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt
động.
2.6 Chiến lược về thị trường:
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá
các thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng. Xây dựng chiến lược và kế hoạch
phát triển, mở rộng thị trường du lịch của Việt Nam để sớm hoà nhập vào thị trường
du lịch của khu vực và thế giới. Trong giai đoạn dầu nên tập trung vào các nước
Động Nam á, Châu á - Thái Bình Dương, tiếp đó là các thị trường Tây emdashu và
Bắc Mỹ.
III. CÁC ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHỦ YẾU:
1. Định hướng về tổ chức không
gian lãnh thổ du lịch:
Qui hoạch tổng thể phát triển du
lịch ở nước ta được chia thành ba vùng du lịch với những chỉ tiêu và sản phẩm
du lịch đặc trưng.
* Vùng du lịch Bắc Bộ.
Bao gồm 23 tỉnh từ Hà Giang đến
Hà Tĩnh với thủ đô Hà Nội là trung tâm của vùng và tam giác, động lực tăng trưởng
du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long.
Sản phẩm du lịch đặc trưng của
vùng là du lịch văn hoá kết hợp với du lịch thăm quan, nghiên cứu.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ
yếu:
- Địa bàn các di tích lịch sử,
văn hoá, nghệ thuật, lễ hội truyền thống, làng nghề chủ yếu ở Hà Nội, Hà Tây,
Ninh Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Nam Hà, Hải Hưng...
- Địa bàn của nền văn hoá các
dân tộc Tày - Nùng (Cao Bằng - Lạng Sơn) H'Mông (Hà Giang - Lào Cai), Thái (Lai
Châu - Sơn La), Mường (Hoà Bình).
- Địa bàn cảnh quan, nghỉ dưỡng:
vùng biển và ven biển Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò...
Các cảnh quan vùng hồ Hoà Bình, Hồ Tây, hồ Ba Bể, Yên Lập... Các cảnh quan vùng
núi: Tam Đảo, Ba Vì, Sa Pa, Yên Tử, Mẫu Sơn, Fansipan.
* Vùng du lịch Bắc Bộ:
Bao gồm 5 tỉnh Quảng Bình đến Quảng
Ngãi với Huế và Đà Nẵng là trung tâm đồng vị của vùng và phát triển du lịch Huế
- Đà Nẵng - Lao Bảo.
Sản phẩm du lịch đặc trưng là du
lịch tham quan các di tích lịch sử cách mạng, kết hợp với du lịch biển, hang động
và du lịch quá cảnh.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ
yếu:
Địa bàn có các di sản văn hoá thời
Nguyễn (Huế), văn hoá Chàm (Quảng Nam - Đà Nẵng).
Địa bàn các di tích chống Mỹ, cứu
nước chủ yếu ở Quảng Trị (địa đạo Vĩnh Mốc, dải đường 9 đến Nam Lào, thành cổ
Quảng Trị...)
Địa bàn các cảnh quan nghỉ dưỡng,
giải trí dải ven biển Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), Vĩnh
Nam Ô, Non Nước, Hội An (Quảng Nam - Đà Nẵng), Mỹ Khê (Quảng Ngãi). Các cảnh
quan nghỉ dưỡng vùng núi Bạch Mã, Bà Ná, cảnh quan hang động ở Phong Nha (Quảng
Bình).
* Vùng du lịch Nam Trung bộ và
Nam bộ:
Bao gồm 25 tỉnh từ Kon Tum đến
Minh Hải với hai á vùng du lịch: Nam Trung Bộ (9 tỉnh ) và Nam Bộ (16 tỉnh),
trung tâm của vùng là thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt, thành phố Hồ
Chí Minh - Cần Thơ- Kiên Giang (Phú Quốc) và tam giác tăng trưởng kinh tế và du
lịch: thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu.
Các sản phẩm du lịch đặc trưng của
vùng này là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước, du lịch
sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ
yếu:
Địa bàn đô thị:
* Thành phố Hồ Chí Minh: với các
khu vực Thanh Đa - Bình Quới, Lái Thiêu, hồ Kỳ Hoà, Lâm Viên, Văn Thánh, Đầm
Sen... sẽ phát triển mở rộng dọc sông Sài Gòn, dọc sông Đồng Nai, khu Thủ
Thiêm, rừng Sác, Cần Giờ.
* Vũng Tàu: phát triển khu vực
du lịch biển để phục vụ cho dân cư tại chỗ, nghỉ cuối tuần của khách du lịch quốc
tế cũng như khách du lịch tham quan trong nước, ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh
và phụ cận.
* Thành phố Cần Thơ sẽ trở thành
trung tâm giao tiếp và du lịch của đồng bằng sông Cửu Long khi xây dựng cảng nước
sâu cho tầu trọng tải trên 1 vạn tấn và nâng cấp sân bay.
Địa bàn nghỉ dưỡng giải trí:
* Cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển
thuộc Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà như: Vũng Rô, Đại Lãnh, Văn Phong, Dốc Lết,
Bãi Tiêu, Đồng Đế, Nha Trang, Hòn Trũ. Ngoài ra các bãi biển: Ninh Chữ, Cà Ná
(Ninh Thuận), Bình Châu - Long Hải - Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Hòn Chông
(Hà Tiên) sẽ bổ sung cho sự hoàn chỉnh của dải du lịch ven biển của vùng này.
* Cảnh quan nghỉ dưỡng núi ở Lâm
Đồng - Đà Lạt và một số tỉnh Tây Nguyên đặc biệt thành phố Đà Lạt với nhiều cảnh
quan, núi, hồ, thác và một hệ thống biệt thự có kiến trúc độc đáo.
* Các hồ: hồ Yali (Kon Tum), Biển
Hồ (Pleiku), hồ Lắc (Đắc lắc), Dầu Tiếng (Tây Ninh), Thác Mơ (Sông Bé), Trị An
(Đồng Nai), Thị Nại (Quy Nhơn), hệ thống hồ của Đà Lạt như hồ Đan Kia, Suối
Vàng...
* Các công viên quốc gia: Nam
Cát Tiên, Bù Đăng (Sông Bé), Côn Đảo, các sân chim cần bảo vệ (Minh Hải), rừng
thông (Lâm Đồng).
Địa bàn các di tích kháng chiến
chống Mỹ:
Bán đảo Phượng Hoàng (Quy Nhơn),
Cam Ranh (Khánh Hoà), sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), Xuân Lộc (Đồng Nai), chiến
khu Đ (Lâm Đồng - Tây Ninh - Sông Bé), núi Bà (Tây Ninh), dinh Độc Lập, địa đạo
Củ Chi, Bến Lức (thành phố Hồ Chí Minh) , Phước Long (Sông Bé), Đất Đỏ (Đồng
Nai), Biệt Dinh (Đà Lạt), Bạch Dinh (Vũng Tàu), Bến Tre đồng khởi, các khám ở
Sài Gòn, Sông Bé, Côn Đảo...
Địa bàn các di tích khác:
Các tháp Chàm (Ninh Thuận, Bình
Thuận), Tây Sơn (Bình Định), toà thánh Cao Đài, đền Bà (Tây Ninh), các chùa Bà
núi Sam, núi Sập khu di tích ốc Eo Tri Tôm, Thoại Sơn (An Giang), quê Bác Tôn
(Long Xuyên), kênh Xà No (Tiền Giang).
Các trung tâm lưu trú: Trung tâm
chính: thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt - Vũng Tàu; Trung tâm phụ:
Quy Nhơn - Cần Thơ.
2. Định hướng đầu tư xây dựng
khách sạn:
Trước mắt tập trung đầu tư hai
loại nhóm khách sạn là: khách sạn chuyển tiếp (1 đến 3 sao) và khách sạn cao cấp
(4 - 5 sao).
- Khách sạn chuyển tiếp phục vụ
du lịch theo tuyến. Cả nước đến năm 2000 cần có thêm 25.270 buồng (vùng du lịch
Bắc Bộ 10.100, Bắc Trung Bộ 2.390 và vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ 12.780 buồng
khách sạn). Cần số vốn tính theo thời điểm 1994 khoảng: 1478 triệu USD (bình
quân mỗi năm cần 211 triệu) và đến năm 2010 cần thêm 51.200 buồng (vùng I:
20.200, vùng II: 10.700, vùng III: 20.300 buồng) với số vốn khoảng 3039 triệu
USD.
- Tập trung xây dựng ở các trung
tâm du lịch Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh khách sạn cao cấp (loại 4 - 5 sao
qui mô lớn từ 200 buồng trở lên. Ngoài ra có thể xem xét để xây dựng thêm một số
khách sạn loại này ở các địa bàn ven biển như Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Văn Phong
và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đến năn 2000 cần có thêm 13.760 buồng (vùng I: 6.610,
vùng II: 730, vùng III: 6.420 buồng), cần khoảng 1530 triệu USD (bình quân mỗi
năm cần 218 triệu USD). Đến năm 2010 cần có thêm 28.240 buồng (vùng I: 14.000,
vùng II: 3.500, vùng III: 10.740 buồng), cần khoảng 3163 triệu USD.
Các khách sạn thương gia và
khách sạn nghỉ dưỡng cao cấp 4 -5 sao ở các đô thị và khu du lịch quan trọng
khuyến khích liên doanh với nước ngoài để xây dựng. Các khách sạn nhỏ, cấp thấp
huy động vốn trong nước (trong dân, vốn vay...) để phát triển.
3. Định hướng đầu tư khu du lịch
và cơ sở vui chơi giải trí:
Đồng thời với việc xây dựng các
khách sạn, đầu tư nâng cấp cơ sở vui chơi giải trí hiện có, cần nghiên cứu để
hình thành các khu du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí mới, thích hợp với điều
kiện khả năng của mỗi vùng, góp phần vào việc đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
sản phẩm du lịch Việt Nam, tăng khả năng thu hút và lưu giữ khách.
Phải chú ý đầu tư, tôn tạo danh
lam thắng cảnh và di tích để giữ gìn bảo vệ môi trường, cảnh quan du lịch. Ưu
tiên những dự án đầu tư lớn cho các khu du lịch tổng hợp như dự án ở khu Non Nước
(Đà Nẵng), Thuận An (Huế), Hạ Long (Quảng Ninh), Vịnh Văn Phong (Khánh Hoà),
Đan Kia, hồ Suối Vàng (Lâm Đồng - Đà Lạt), vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu
v.v... phấn đấu đến năm 2000 chúng ta có từ 10 đến 15 dự án các khu du lịch lớn
đi vào hoạt động với sản phẩm cao cấp tương đối hoàn chỉnh, gắn với cảnh quan,
di tích lịch sử, văn hoá của ta, thu hút nhiều khách.
Các khu vực ưu tiên đầu tư phát
triển du lịch:
4.1. Thủ đô Hà nội và phụ cận gồm
Bắc Ninh (Hà Bắc), Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú v.v... tạo ra các khu nghỉ dưỡng
và du lịch cuối tuần của Thủ đô Hà nội. Các dự án bao gồm: Các khu phố cổ, khu
vực Hồ tây, Cổ Loa - Sóc Sơn (Hà nội), Tam Cốc - Bích Động, Hoa Lư (Ninh Bình),
Chùa Hương, Ba Vì - Đồng Mô, Suối Hai (Hà Tây), Tiên Sơn (Hà Bắc), Tam Đảo
(Vĩnh Phú), nền văn hoá các dân tộc thuộc tỉnh Hoà Bình, Điện Biên Phủ (Lai
Châu), hồ Ba Bể (Cao Bằng), khu hang động Nhất, Nhị, Tam Thanh - Mẫu Sơn (Lạng
Sơn), xây dựng làng văn hoá các dân tộc Việt Nam ở Hà Tây.
4.2. Hạ Long - Bái Tử Long, Cát
Bà, Đồ Sơn (Quảng Ninh, Hải Phòng): các dự án du lịch cần tập trung vào hải đảo
Cát Bà và không gian trên biển của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long... tạo nên quần
thể có những sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh trong vùng.
4.3. Huế - Đà Nẵng - Lao Bảo:
các dự án du lịch cần tập trung bảo tồn và khai thác các di sản văn hoá kiến
trúc ( Huế), Cách mạng (Quảng Trị) cùng các di sản thiên nhiên ở trục đường Huế
- Lăng Cô - Hải Vân - Sơn Trà - Đà Nẵng, dải ven biển từ vịnh Nam Ô đến đô thị
cổ Hội An, động Phong Nha (Quảng Bình). Chú ý các dự án về kết cấu hạ tầng
trong việc phát triển du lịch đường bộ với Lào - Thái Lan qua đường xuyên á đến
Myanma, Malaysia và Singapo trong tương lai.
4.4. Nha trang - Ninh Chữ - Đà Lạt:
các dự án kết hợp giữa khu nghỉ biển và núi. Đầu tư vào việc xây dựng một khu
du lịch biển lớn ở Việt Nam cho những năm sau 2000 ở vùng biển Đại Lãnh, vịnh
Văn Phong, Nha trang (Khánh Hoà). Xây dựng tuyến du lịch thành phố Hồ Chí Minh
- Đà Lạt - Nha trang. Xây dựng sân bay Đông Trác (Tuy Hoà), đáp ứng nhu cầu vận
chuyển khách du lịch đến á vùng Nam Trung Bộ.
4.5. Vũng Tàu - Long Hải - Côn Đảo:
Đầu tư phát triển du lịch nghỉ cuối tuần (cho cư dân của thành phố Hồ Chí Minh
và phụ cận) trên khu vực bãi biển Long Hải - Phước Hải. Có dự án riêng cho Côn
Đảo, quy hoạch lại các khu du lịch ở bãi trước, bãi sau và thành phố Vũng Tàu.
4.6. Thành phố Hồ Chí Minh và phụ
cận: tận dụng thế mạnh của Thành phố Hồ Chí Minh để khai thác tuyến du lịch
trên sông Sài Gòn đến các vùng sông nước của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
cùng các dự án phát triển du lịch trên sông Mê Công đến Pnômpênh (Cămpuchia), với
Lào và Thái Lan. Dự án làng văn hoá các dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh. Một
khu vực vui chơi giải trí ở thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận (Thủ Đức, Biên
Hoà...).
4.7. Hà Tiên - Phú Quốc (Kiên
Giang): cần có một định chế riêng cho việc đầu tư đảo Phú Quốc. Dự án đầu tư
Phú Quốc phải là một dự án toàn diện và đồng bộ trong một chiến lược phát triển
lâu dài cho cả vùng, trong đó phát triển du lịch sinh thái là một hướng ưu
tiên.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
- Quy hoạch xây dựng các cơ sở
du lịch, khu du lịch phải xuất phát từ định hướng phát triển kinh tế xã hội của
mỗi vùng, mỗi dịa phương, tiềm năng, tài nguyên du lịch tại chỗ và định hướng
phát triển du lịch, nhằm khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên du lịch,
thúc đẩy phát triển và mở rộng khả năng du lịch của mỗi vùng, đồng thời duy tu
tôn tạo nâng cấp di sản văn hoá, lịch sử, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên môi trường,
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách du lịch. Phát triển các hình thức du lịch
phù hợp, gắn địa bàn du lịch trọng điểm với du lịch vùng và du lịch cả nước.
Khuyến khích và có những chính sách phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể để
huy động mọi nguồn lực nhằm tập trung đầu tư phát triển du lịch một cách có hiệu
quả, thiết thực. Từng bước tạo việc làm, tăng nguồn thu, mở rộng giao lưu, góp
phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
- Trong giai đoạn đầu, một mặt cải
tạo, nâng cấp các cơ sở du lịch hiện có để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về chất
lượng dịch vụ và sản phẩm du lịch. Mặt khác phải có kế hoạch cụ thể và phương
án xây dựng phát triển du lịch với hình thức và quy mô thích hợp theo từng giai
đoạn, đón trước thời cơ chủ động trong phát triển. Trên cơ sở đó tập trung đầu
tư xây dựng và mở rộng các tuyến điểm, khu du lịch, làng văn hoá du lịch, kết hợp
được nhiều loại hình du lịch khác nhau. Huy động nhiều nguồn vốn để đầu tư:
Liên doanh liên kết trong nước, các thành phần kinh tế; đầu tư nước ngoài để
tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại nhằm xây
dựng các cơ sở du lịch, khu du lịch có chất lượng cao. Kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng phát triển du lịch với xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế xã
hội tại chỗ.
- Chú trọng công tác nghiên cứu
khoa học và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Củng cố hệ thống các cơ sở đào tạo
du lịch ở tất cả các cấp học: tiêu chuẩn hoá công tác đào tạo để đáp ứng đòi hỏi
của quá trình phát triển du lịch nước ta. Kết hợp giữa đào tạo lại, đào tạo mới
với bồi dưỡng dưới các hình thức thích hợp ở trong và ngoài nước để nhanh chóng
có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và phẩm chất phục vụ trong ngành du lịch.
- Kiện toàn tổ chức hệ thống quản
lý du lịch từ Trung ương đến địa phương cả hệ thống quản lý Nhà nước và các hoạt
động kinh doanh du lịch, dịch vụ; xây dựng các cơ sở chính trị, các đoàn thể quần
chúng vững mạnh trong sạch; đồng thời nghiên cứu điều chỉnh bổ sung hoàn thiện
dần hệ thống cơ chế chính sách và quy định về du lịch phù hợp với yêu cầu phát
triển để đảm bảo hiệu lực quản lý về du lịch, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho kinh doanh phát triển du lịch.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ
giữa các ngành và các địa phương chỉ đạo quản lý và phát triển du lịch phù hợp
với quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả nước và chiến lược phát triển kinh
tế xã hội mỗi vùng, mỗi địa phương, sớm đưa du lịch nước ta trở thành ngành
kinh tế quan trọng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước và theo kịp
du lịch các nước phát triển trong vùng và thế giới.