TỔ
CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
182/1999/QĐ-CTN
|
Hà
Nội , ngày 18 tháng 6 năm 1999
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
CHỦ TỊCH NƯỚC SỐ 182/1999/QĐ-CTN NGÀY 17 THÁNG 11 NĂM 2000 VỀ VIỆC PHÊ CHUẨN
CÔNG ƯỚC 182 CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều 103 và Điều
106 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ vào Pháp lệnh về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế của nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 24/8/1998;
Xét đề nghị của Chính phủ tại Công văn số 1042/CP-QHQT ngày 13 tháng 11 năm
2000;
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê chuẩn Công ước
182 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về "Cấm và hành động tức thời để loại
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất".
Điều 2. Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao có trách nhiệm làm thủ tục đối ngoại về việc Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tham gia Công ước này và thông báo cho các cơ quan hữu quan ngày
có hiệu lực của Công ước.
Điều 3. Quyết định này có
hiệu lực từ ngày ký.
Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm
Văn phòng Chủ tịch nước chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
CÔNG ƯỚC SỐ 182
CÔNG
ƯỚC VỀ VIỆC CẤM VÀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG TỨC THỜI ĐỂ LOẠI BỎ NHỮNG HÌNH THỨC LAO ĐỘNG
TRẺ EM TỒI TỆ NHẤT
Hội nghị toàn thể của Tổ chức
lao động quốc tế.
Được Hội đồng quản trị của Văn
phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơnevơ, ngày 1 tháng 6 năm 1999 trong
khoá họp lần thứ 87.
Xem xét nhu cầu thông qua những
văn kiện mới để cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất là một
ưu tiên chính trong hành động quốc gia và quốc tế , bao gồm cả hợp tác và trợ
giúp quốc tế để bổ sung cho Công ước và khuyến nghị về tuổi tối thiểu được chấp
nhận làm việc, năm 1973, hiện vẫn là văn kiện cơ bản về lao động trẻ em,
Thấy rằng việc loại bỏ có hiệu
quả những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đòi hỏi phải hành động tức thời
và toàn diện có xem xét đến ý nghĩa của việc giáo dục cơ bản miễn phí và sự cần
thiết đưa những trẻ em có liên quan ra khỏi tất cả những công việc như vậy và
giúp các em phục hồi và hoà nhập xã hội trong khi đáp ứng những nhu cầu của gia
đình các em,
Nhắc lại Nghị quyết về việc loại
bỏ lao động trẻ em được Hội nghị lao động quốc tế thông qua ở khoá họp lần thứ
83 năm 1996,
Nhận thấy rằng sự nghèo khó ở một
mức độ lớn là nguyên nhân của lao động trẻ em, và thấy rằng những giải pháp lâu
dài cho vấn đề này là sự tăng trưởng kinh tế bền vững dẫn đến những tiến bộ xã
hội đặc biệt là xoá bỏ nghèo khổ và giáo dục phổ cập,
Nhắc lại Công ước về quyền trẻ
em được Đại hội đồng liên hiệp quốc thông qua vào ngày 20 tháng 11 năm 1989,
Nhắc lại Tuyên bố của Tổ chức
Lao động quốc tế về những nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc và những
biện pháp tiếp theo, được Hội nghị Lao động quốc tế thông qua ở khoá họp lần thứ
86 năm 1998,
Nhắc lại rằng, một số hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất đã được những văn kiện quốc tế khác đề cập đến, đặc
biệt là Công ước về Lao động cưỡng bức năm 1930, và Công ước bổ sung của Liên
hiệp quốc về loại bỏ nô lệ, buôn bán nô lệ, các thể chế và tập tục giống như nô
lệ năm 1956,
Quyết định thông qua một số đề
nghị về lao động trẻ em, đề mục thứ tư trong chương trình nghị sự của khoá họp
này,
Quyết định rằng, những đề nghị
đó sẽ được thông qua dưới hình thức của một Công ước quốc tế thông qua ngày 17/6/1999.
Công ước dưới đây, gọi là Công ước về những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất,
1999.
Điều 1.
Mỗi một nước thành viên phê chuẩn
công ước này sẽ áp dụng những biện pháp tức thời và hữu hiệu để đảm bảo việc cấm
và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như một vấn đề khẩn cấp.
Điều 2.
Vì mục đích của Công ước này,
thuật ngữ "trẻ em" sẽ được áp dụng cho tất cả những ai dưới 18 tuổi.
Điều 3.
Vì mục đích của Công ước này,
thuật ngữ "những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất" bao gồm:
a) Tất cả những hình thức nô lệ
hay những tập tục giống như nô lệ, như buôn bán trẻ em, giam cầm thế nợ, lao động
khổ sai, lao động cưỡng ép hay bắt buộc để sử dụng trong các cuộc xung đột có
vũ trang;
b) Việc sử dụng, mua bán hay
chào mời trẻ em cho mục đích mại dâm, cho việc sản xuất sách báo hay các chương
trình khiêu dâm;
c) Việc sử dụng mua bán hay chào
mời trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu
ma tuý như đã được định nghĩa trong các hiệp ước quốc tế liên quan.
d) Những công việc có khả năng
làm hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của công
việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc.
Điều 4.
1. Những loại công việc
được đề cập ở Điều 3 (d) sẽ do các luật lệ của quốc gia hay cơ quan có thẩm quyền
của quốc gia quy định, sau khi tham khảo ý kiến với tổ chức của người lao động
và người sử dụng lao động có liên quan và xem xét những chuẩn mực quốc tế tương
ứng, đặc biệt đoạn 3 và 4 của Khuyến nghị về những hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất, 1999.
2. Cơ quan có thẩm quyền sẽ xác
định những nơi có tồn tại những loại công việc nói trên sau khi tham khảo ý kiến
của tổ chức người lao động và người sử dụng lao động có liên quan.
3. Danh sách những loại công việc
được xác định theo đoạn 1 của điều này sẽ được xem xét và chỉnh sửa lại theo định
kỳ cần thiết có sự tham khảo ý kiến của Tổ chức người sử dụng lao động và người
lao động có liên quan.
Điều 5.
Sau khi tham khảo ý kiến của Tổ
chức người sử dụng lao động và người lao động, mỗi nước thành viên sẽ thiết lập
hay chỉ định những cơ chế thích hợp để giám sát việc thực hiện những quy định
trong Công ước, làm cho Công ước này có hiệu lực.
Điều 6.
1. Mỗi nước thành viên sẽ xây dựng
và thực hiện những chương trình hành động nhằm loại bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất như một hành động ưu tiên.
2. Những chương trình hành động
này sẽ được xây dựng và thực hiện với sự tham khảo ý kiến của các cơ quan Chính
phủ có liên quan và Tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động, có
xét đến quan điểm của các nhóm liên quan khác nếu thích hợp.
Điều 7.
1. Mỗi nước thành viên sẽ tiến
hành tất cả các biện pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện và thi hành có hiệu quả
những quy định khiến cho Công ước này có hiệu lực, bao gồm quy định và áp dụng
các hình thức trừng phạt về mặt pháp luật và các biện pháp trừng phạt thích hợp
khác.
2. Xét tầm quan trọng của giáo dục
trong việc loại bỏ lao động trẻ em, mỗi nước thành viên sẽ áp dụng những biện
pháp hữu hiệu trong một khoảng thời gian nhất định để:
a) Ngăn chặn việc đưa trẻ em
tham gia vào những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
b) Có những hỗ trợ trực tiếp cần
thiết và thích hợp để đưa trẻ em ra khỏi những hình thức lao động tồi tệ nhất,
giúp các em phục hồi và hoà nhập với xã hội.
c) Đảm bảo để tất cả trẻ em đã
được đưa ra khỏi những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất được hưởng giáo dục
cơ bản miễn phí, ở những nơi có thể và thích hợp thì được đào tạo nghề.
d) Xác định và tiếp cận những trẻ
em có rủi ro đặc biệt và chú ý tới hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em gái.
3- Mỗi nước thành viên sẽ chỉ định
một cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm về việc thực hiện những quy định cuả
Công ước này.
Điều 8
Các nước thành viên sẽ tiến hành
những bước thích hợp để hỗ trợ nhau thực hiện những quy định của Công ước này
thông qua việc tăng cường hợp tác và/hoặc trợ giúp quốc tế bao gồm sự hỗ trợ
cho các chương trình phát triển kinh tế và xã hội xoá bỏ nghèo nàn và giáo dục
phổ cập.
Điều 9
Việc chính thức phê chuẩn Công ước
này sẽ được thông báo cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động để đăng ký.
Điều 10
1. Công ước này chỉ có hiệu lực
ràng buộc đối với những thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế đã đăng ký phê
chuẩn với Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế.
2. Công ước sẽ có hiệu lực sau
12 tháng kể từ ngày có hai nước thành viên đăng ký phê chuẩn với Tổng giám đốc.
3. Sau đó, Công ước này sẽ có hiệu
lực với bất kỳ nước thành viên nào sau 12 tháng kể từ khi việc phê chuẩn Công ước
của nước đó được đăng ký.
Điều 11
1. Một nước thành viên đã phê
chuẩn Công ước có thể bãi ước sau 10 năm kể từ ngày Công ước bắt đầu có hiệu lực
bằng cách thông báo cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế để đăng ký bãi
ước. Việc bãi ước này sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày đăng ký bãi ước.
2. Mỗi nước thành viên đã phê
chuẩn Công ước này và trong vòng một năm sau khi Công ước có hiệu lực được 10
năm như nêu ở đoạn trên mà không thực hiện quyền bãi ước nêu tại điều này thì sẽ
chịu ràng buộc thêm một giai đoạn 10 năm nữa và sau đó có thể tuyên bố bãi ước
sau mỗi giai đoạn theo như quy định trong điều khoản này.
Điều 12
1. Tổng giám đốc Văn
phòng Lao động Quốc tế sẽ thông báo cho tất cả các nước thành viên của tổ chức
lao động quốc tế về tất cả các đăng ký phê chuẩn và đăng ký bãi ước của các nước
thành viên.
2. Khi thông báo cho các nước
thành viên về việc đăng ký phê chuẩn của nước thứ hai, Tổng giám đốc sẽ lưu ý
các thành viên về ngày mà công ước sẽ có hiệu lực.
Điều 13
Tổng giám đốc Văn phòng lao động
quốc tế sẽ thông báo cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc để đăng ký theo Điều 102 của Hiến chương Liên hiệp quốc, toàn bộ đặc điểm của tất
cả đăng ký phê chuẩn và đăng ký bãi ước gửi tới Tổng giám đốc theo quy định của
các điều khoản trên.
Điều 14
Khi cần thiết, Hội đồng quản trị
của Văn phòng lao động quốc tế sẽ trình lên Hội nghị toàn thể một bản báo cáo về
hoạt động của Công ước này và sẽ xem xét sự cần thiết đưa vấn đề sửa đổi toàn bộ
hoặc một phần của Công ước vào chương trình nghị sự của Hội nghị.
Điều 15
1. Nếu Hội nghị Thông qua một
công ước mới sửa đổi toàn bộ hay một phần của Công ước này, khi đó trừ khi Công
ước mới có những quy định khác.
a) Việc phê chuẩn công ước mới sửa
đổi của một nước thành viên cũng có nghĩa là nước đó huỷ bỏ việc tham gia Công
ước này ngay khi đó, mặc dù có những quy định ở Điều 11 nói trên, nếu và khi
công ước mới có hiệu lực.
b) Kể từ ngày công ước mới sửa đổi
có hiệu lực, Công ước này sẽ không mở cho các nước thành viên phê chuẩn nữa.
2. Trong bất kỳ trường hợp nào,
Công ước này vẫn có hiệu lực cả về hình thức và nội dung thực tại của nó đối với
những nước thành viên đã phê chuẩn Công ước này nhưng chưa phê chuẩn công ước sửa
đổi.
Điều 16
Cả hai bản Tiếng Anh và tiếng
Pháp của công ước này có giá trị như nhau.
Trên đây là văn bản xác thực của
Công ước được Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế nhất trí thông qua
trong khoá họp lần thứ tám mươi bảy được tổ chức tại Giơnevơ và tuyên bố bế mạc
ngày 17 tháng 6 năm 1999.
Để xác nhận điều này, chúng tôi
đã ký tên vào ngày 18 tháng 6 năm 1999.
KHUYẾN NGHỊ SỐ 190
KHUYẾN
NGHỊ VỀ VIỆC CẤM VÀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG TỨC THỜI ĐỂ LOẠI BỎ NHỮNG HÌNH THỨC LAO ĐỘNG
TRẺ EM TỒI TỆ NHẤT
Hội nghị toàn thể của Tổ chức
lao động quốc tế.
Được Hội đồng quản trị của Văn
phòng lao động quốc tế triệu tập tại Giơnevơ, khóa họp lần thứ 87 khai mạc vào
ngày 1 tháng 6 năm 1999;
Đã thông qua Công ước về những
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999 và đã quyết định Thông qua một số đề
nghị về lao động trẻ em là đề mục thứ tư trong chương trình nghị sự của khoá họp,
và quyết định rằng những đề nghị
này sẽ mang hình thức một Khuyến nghị bổ sung công ước về những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất, 1999.
Thông qua ngày 17/6/1999 khuyến
nghị sáu có thể gọi là khuyến nghị về hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất,
1999.
1- Những quy định của khuyến nghị
này bổ sung những quy định của Công ước về những hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất, 1999 (sau đây sẽ gọi là "Công ước") và nên được áp dụng cùng
với công ước.
1- Chương trình hành động
2- Chương trình hành động được đề
cập đến ở điều 6 của công ước nên được xây dựng và thực hiện như một vấn đề khẩn
cấp, có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan Chính phủ liên quan và tổ chức của
người sử dụng lao động và người lao động, có xét đến ý kiến của những trẻ em bị
ảnh hưởng trực tiếp bởi những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, ý kiến của
gia đình các em và nếu thích hợp, ý kiến của các nhóm liên quan khác cam kết thực
hiện mục đích của Công ước và Khuyến nghị này. Ngoài những điểm khác, những chương
trình như vậy nên nhằm vào:
a) Xác định huỷ bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất
b) Ngăn chặn việc đưa trẻ em
tham gia vào hoặc đưa trẻ em ra khỏi những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất,
bảo vệ các em khỏi những hành động trả thù và giúp các em phục hồi và hoà nhập
xã hội thông qua các biện pháp đáp ứng được các nhu cầu về giáo dục thể chất và
tâm lý cho các em.
c) Đặc biệt chú ý tới
i) Những em ở lứa tuổi nhỏ hơn
ii) Những em gái
iii) Những nơi làm việc được giấu
kín mà trẻ em gái đặc biệt gặp nguy cơ cao
iv) Những trẻ em khác có nguy cơ
bị tổn thương cao hoặc có nhu cầu đặc biệt
d) Xác định, vươn tới và làm việc
với các cộng đồng mà ở đó trẻ em có rủi ro
e) Cung cấp thông tin, làm tăng
độ nhạy cảm huy động công luận và các nhóm liên quan khác bao gồm trẻ em và gia
đình của các em.
2- Công việc độc hại :
3- Khi xác định các loại công việc
được đề cập đến ở Điều 3 (d) của Công ước và xác định những nơi có các loại
công việc đó; ngoài những vấn đề khác, những điểm sau đây cần được xem xét:
a) Công việc khiến trẻ em lâm
vào tình trạng dễ bị lạm dụng về mặt thể chất tâm lý hay tình dục.
b) Công việc dưới mặt đất, dưới
nước, ở các độ cao nguy hiểm hay trong các khoảng không gian bị tù hãm.
c) Công việc với các loại máy
móc thiết bị và dụng cụ nguy hiểm hoặc công việc đòi hỏi phải dùng sức để xử lý
hoặc vận chuyển những khối hàng nặng;
d) Công việc trong môi trường có
hại cho sức khoẻ ví dụ như có thể khiến trẻ em phải tiếp xúc với các chất những
tác nhân hay những chu trình độc hại hoặc với tiếng ồn, nhiệt độ hay độ rung
làm tổn hại đến sức khoẻ của trẻ em;
e) Công việc trong những hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn ví dụ làm việc trong nhiều giờ liền hay công việc vào ban đêm
hay công việc khiến trẻ em bị giam hãm vô lý tại địa điểm của người sử dụng lao
động.
4- Với những loại công việc được
đề cập đến ở Điều 3 (d) của Công ước và đoạn 3 trên đây, sau khi tham khảo ý kiến
của Tổ chức người lao động và người sử dụng lao động, luật lệ quốc gia hay cơ
quan có thẩm quyền có thể cho phép tuyển lao động từ 16 tuổi trở lên với điều
kiện là sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của những trẻ em có liên quan phải được
bảo vệ đầy đủ, và những trẻ em này đã được hướng dẫn đầy đủ cụ thể hay đã được
đào tạo nghề trong lĩnh vực tương ứng.
3- Thực hiện :
5- 1) Những thông tin chi tiết
và số liệu thống kê về bản chất và mức độ của lao động trẻ em cần được thu lượm
và cập nhật, để làm căn cứ cho việc xác định những ưu tiên hành động quốc gia để
xoá bỏ lao động trẻ em đặc biệt cho việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động
tồi tệ nhất như một vấn đề cấp thiết.
2) Ở mức độ chi tiết có thể được,
những thông tin và số liệu thống kê này cần bao gồm số liệu được chia theo giới
tính, nhóm tuổi và nghề nghiệp ngành kinh tế tình trạng việc làm, tình hình đi
học và vị trí địa lý. Cũng nên chú ý đến tầm quan trọng của một hệ thống đăng
ký khai sinh có hiệu quả, bao gồm cả việc cấp giấy khai sinh.
3) Những số liệu thích hợp có
liên quan đến việc vi phạm những quy định quốc gia về việc cấm và loại bỏ những
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất nên được thu lượm và cập nhật.
6- Việc thu lượm xử lý thông tin
và số liệu được đề cập đến ở đoạn 5 nói trên nên được tiến hành có xét đến quyền
riêng tư của mỗi cá nhân.
7- Những thông tin thu lượm được
theo Điều 5 ở trên nên được thông báo định kỳ cho Văn phòng lao động quốc tế.
8- Những nước thành viên nên
thành lập hay chỉ định những cơ chế cấp quốc gia thích hợp để giám sát và thực
hiện những quy định quốc gia về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ
em tồi tệ nhất sau khi tham khảo ý kiến của Tổ chức người sử dụng lao động và
người lao động.
9- Các nước thành viên nên đảm bảo
rằng, các cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm thực hiện những quy định quốc
gia về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất hợp tác
với nhau và điều phối hoạt động của họ.
10- Pháp luật quốc gia hoặc cơ
quan có thẩm quyền nên xác định người chịu trách nhiệm trong trường hợp các quy
định quốc gia về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
không được tuân thủ.
11- Ở mức độ phù hợp với luật
pháp quốc gia các nước thành viên nên hợp tác với những nỗ lực quốc tế nhằm cấm
và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như là một vấn đề khẩn cấp
bằng cách:
a) Thu thập và trao đổi thông
tin liên quan đến hoạt động tội phạm bao gồm những hoạt động có liên quan đến
những đường dây quốc tế.
b) Phát hiện và truy tố những kẻ
có liên quan những kẻ buôn bán trẻ em hoặc những kẻ có liên quan đến việc sử dụng,
mua hay dụ dỗ trẻ em vào những hoạt động bất hợp pháp, mại dâm, sản xuất sách
báo hoặc những cuộc biểu diễn khiêu dâm;
c) Lưu hồ sơ những kẻ phạm tội.
12- Các nước thành viên nên quy
định những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất sau đây là tội phạm:
a) Tất cả các hình thức nô lệ
hay những tập tục tương tự như nô lệ, ví dụ như việc buôn bán trẻ em, giam giữ
thế nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng ép hay bắt buộc để sử dụng trong các
cuộc xung đột vũ trang.
b) Việc sử dụng, mua bán hay dụ
dỗ trẻ em cho mục đích mại dâm sản xuất sách báo đồi truỵ hay các cuộc biểu diễn
khiêu dâm.
c) Sử dụng mua bán hay dụ dỗ trẻ
em cho các hoạt động bất hợp pháp đặc biệt cho việc sản xuất và buôn lậu ma tuý
như đã được định nghĩa trong các Hiệp ước quốc tế có liên quan, hay cho các hoạt
động có liên quan đến việc mang hay sử dụng súng trường hay các loại vũ khí
khác một cách bất hợp pháp.
13- Các nước thành viên nên đảm
bảo rằng, các hình phạt sẽ được áp dụng cho việc vi phạm những quy định quốc
gia về việc cấm và loại bỏ bất kỳ một loại công việc nào được đề cập ở điều 3
(d) của Công ước bao gồm cả hình phạt hình sự nếu thích hợp.
14- Để đảm bảo việc thi hành có
hiệu quả những quy định quốc gia về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất, các nước thành viên cũng nên quy định ngay những biện pháp
hành chính dân sự hay hình sự, ví dụ như một hệ thống giám sát đặc biệt đối với
những doanh nghiệp đã sử dụng những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, và
trong trường hợp thường xuyên vi phạm có thể xem xét việc tạm thời hay vĩnh viễn
rút giấy phép hoạt động.
15- Những biện pháp khác nhằm mục
đích cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất có thể bao gồm
những biện pháp sau đây:
a) Thông báo, gây xúc động và vận
động quần chúng nói chung kể cả những nhà lãnh đạo chính trị địa phương và quốc
gia, các đại biểu Quốc hội và các luật sư;
b) Lôi kéo sự tham gia của các Tổ
chức người sử dụng lao động và người lao động, tổ chức dân sự khác và đào tạo
cho các tổ chức này;
c) Tổ chức các khoá đào tạo
thích hợp cho các cán bộ Chính phủ có liên quan, đặc biệt là thanh tra viên và
các cán bộ thi hành luật và cán bộ chuyên môn thích hợp khác;
d) Quy định việc khởi tố tại các
nước thành viên những công dân phạm tội theo luật quốc gia về việc cấm và loại
bỏ tức thời những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất thậm chí ngay cả khi những
tội này được thực hiện ở nước khác.
e) Đơn giản hoá các thủ tục pháp
lý và hành chính và đảm bảo rằng các thủ tục này là hợp lý và kịp thời;
f) Khuyến khích xây dựng các
chính sách nhằm thúc đẩy mục đích của Công ước này;
g) Theo dõi và công bố rộng rãi
những gương tốt về việc loại bỏ lao động trẻ em;
h) Công bố rộng rãi những quy định
pháp luật và những quy định khác về lao động trẻ em bằng những ngôn ngữ khác
nhau hay bằng tiếng địa phương;
i) Thiết lập những thủ tục khiếu
nại đặc biệt và đưa ra những điều luật để bảo vệ những người đã tố cáo hợp pháp
việc vi phạm những quy định của công ước khỏi bị phân biệt đối xử và bị trả
thù, thiết lập những đường dây trợ giúp hay những điểm liên lạc và những thẩm
tra viên;
j) Áp dụng những biện pháp thích
hợp để nâng cao cơ sở hạ tầng về giáo dục và đào tạo giáo viên để đáp ứng được
yêu cầu của các trẻ em trai và trẻ em gái.
k) Ở một chừng mực có thể, xem
xét các yếu tố sau trong chương trình hành động quốc gia:
i) Tạo việc làm và đào tạo nghề
cho cha mẹ và những người lớn trong gia đình của trẻ em đang làm việc trong những
điều kiện được nêu ra trong công ước;
ii) Và cần làm cho các bậc cha mẹ
nhậy cảm với vấn đề trẻ em làm việc trong những điều kiện như vậy.
16- Hợp tác và/hoặc trợ giúp quốc
tế giữa các nước thành viên nhằm cấm và loại bỏ có hiệu quả những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất nên hỗ trợ cho những nỗ lực của các quốc gia và nên được
xây dựng và thực hiện có sự tham khảo ý kiến của Tổ chức người sử dụng lao động
và người lao động một cách hợp lý. Sự hợp tác và/hoặc trợ giúp quốc tế như vậy
nên bao gồm:
a) Huy động các nguồn lực cho
các chương trình quốc gia hay quốc tế;
b) Tương trợ về mặt pháp lý.
c) Hỗ trợ về mặt chuyên môn bao
gồm cả việc trao đổi thông tin.
d) Hỗ trợ các chương trình phát
triển kinh tế xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và giáo dục phổ cập.