Quyết định 18/2002/QĐ-BKHCN phê duyệt "đề án phát triển và quản lý hoạt động mã số mã vạch" do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành

Số hiệu 18/2002/QĐ-BKHCN
Ngày ban hành 30/12/2002
Ngày có hiệu lực 14/01/2003
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Bộ Khoa học và Công nghệ
Người ký Bùi Mạnh Hải
Lĩnh vực Thương mại,Công nghệ thông tin

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18/2002/QĐ-BKHCN

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2002 

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT "ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MÃ SỐ MÃ VẠCH"

BỘ TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Căn cứ Nghị định 22/CP ngày 22 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ);
Căn cứ Quyết định số 45/2002/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định nội dung quản lý nhà nước về mã số mã vạch và cơ quan quản lý nhà nước về mã số mã vạch;

Theo đề nghị của Tổng cục trư­­ởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo l­­ường Chất lượng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt “Đề án phát triển và quản lý hoạt động mã số mã vạch”.

Điều 2. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành Quyết định này.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.

Điều 4. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

Nơi nhận:
- Thủ t­­ướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Công báo;
- L­­ưu VT, TĐC, PC.

KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THỨ TRƯỞNG




Bùi Mạnh Hải

 

 

ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MÃ SỐ MÃ VẠCH
(Được phê duyệt tại Quyết định số: 18/2002/QĐ-BKHCN ngày 30 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ)

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN

Công nghệ mã số mã vạch (sau đây viết tắt là MSMV) là một trong những công nghệ nhận dạng tự động các đối tượng là vật phẩm, dịch vụ, tổ chức v.v..., dựa trên việc ấn định một mã (số hoặc chữ - số) cho đối tượng cần phân định, sau đó thể hiện mã đó dưới dạng các vạch để thiết bị đọc (máy quét) có thể đọc được và nhận biết được đối tượng đó.

Công nghệ này đơn giản, ít tốn kém, nhưng cho phép nhận dạng các đối tượng một cách chính xác, nhanh chóng và hiệu quả. Có nhiều loại MSMV khác nhau được sử dụng như các mã EAN do Tổ chức Mã số mã vạch Quốc tế (EAN quốc tế) quy định, mã UCC do Hội đồng Mã thống nhất của Mỹ (UCC) quy định; mã QR (QR Code: 2D barcode) xuất hiện gần đây được sử dụng có hiệu quả trong quản lý nhân sự, trong giao nhận hàng hoá và các dịch vụ hành chính, và các mã chuyên ngành khác.

Công nghệ MSMV được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động quản lý, đặc biệt trong thương mại, hàng không, bưu điện, y tế và vận chuyển, giao nhận hàng hoá v.v. Quy mô ứng dụng được thực hiện ở các cấp độ khác nhau như cơ sở, ngành, quốc gia, khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

Mặc dù mới xuất hiện gần 30 năm nay, nhưng công nghệ này đã nhanh chóng phát triển ở quy mô toàn cầu. Tổ chức EAN quốc tế ra đời năm 1977 đã nghiên cứu phát triển và tiêu chuẩn hoá một số loại MSMV, gọi là mã EAN, để áp dụng chung trên toàn thế giới, nhằm tạo ra hệ thống thống nhất MSMV đơn nhất trên phạm vi toàn cầu cho các vật phẩm, dịch vụ, tổ chức....,có thể nhận dạng ở mọi nơi trên thế giới trong khi chỉ cần cấp một lần ở một nơi nào đó, góp phần thuận lợi hoá và nâng cao hiệu quả công tác quản lý sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác, đặc biệt trong bối cảnh điện tử hoá dịch vụ và thương mại. Hiện nay các mã tiêu chuẩn này đã được 97 nước thành viên của EAN quốc tế áp dụng để phân định gần 1.000.000 doanh nghiệp và hàng trăm triệu sản phẩm, hàng hoá.

Năm 1995, thấy rõ lợi ích của công nghệ MSMV, đồng thời để đáp ứng nhu cầu của một số doanh nghiệp cần sử dụng MSMV trên sản phẩm xuất khẩu theo yêu cầu của bạn hàng nước ngoài, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã đề nghị và Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (sau đây viết tắt là Tổng cục TCĐLCL) tham gia EAN quốc tế nhằm đưa công nghệ MSMV vào ứng dụng ở nước ta (Công văn số 3395/QHQT ngày 23 tháng 6 năm 1995 của Văn phòng Chính phủ). Từ đó đến nay công nghệ MSMV bước đầu được áp dụng ở nước ta.

Sau khi Thủ tướng Chính phủ cho phép tham gia EAN quốc tế, Tổng cục TCĐLCL đã tích cực triển khai việc ứng dụng công nghệ MSMV vào nước ta; tiến hành quản lý ngân hàng mã số quốc gia với số đầu là 893 do EAN quốc tế cấp cho Việt Nam, cấp mã số cho các doanh nghiệp; đồng thời thực hiện vai trò đại diện cho Việt Nam tại EAN quốc tế và được EAN quốc tế công nhận là đại diện duy nhất của họ tại Việt Nam.

Tính đến ngày 30/7/2002, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành 10 Tiêu chuẩn Việt Nam về MSMV trên cơ sở chấp nhận các tiêu chuẩn của EAN quốc tế và đã cấp mã số cho hơn 1500 doanh nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau. Các doanh nghiệp này đã sử dụng MSMV trên hàng vạn sản phẩm để bán trong nước và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.

Ngoài việc ứng dụng MSMV trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, MSMV còn được ứng dụng trong một số lĩnh vực khác ở nước ta như hàng không, bưu điện, y tế, xuất bản v.v...

Tuy nhiên, việc ứng dụng và quản lý công nghệ MSMV ở nước ta còn có những tồn tại như sau:

+ Việc ứng dụng công nghệ MSMV mới chỉ dừng ở việc cấp mã số doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp in MSMV trên sản phẩm, hàng hoá để phục vụ bán hàng, chưa triển khai ứng dụng các loại MSMV trên các đơn vị giao nhận, vận chuyển, trong trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange) và phân định các bên đối tác trong giao dịch sản xuất, kinh doanh (chuỗi cung cấp). Số lượng các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ MSMV chiếm tỷ lệ thấp, số lượng hàng hoá của Việt Nam sử dụng MSMV chưa nhiều.

+ Chưa có biện pháp đẩy mạnh việc nghiên cứu và triển khai ứng dụng rộng rãi MSMV trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân cũng như các ngành dịch vụ và văn hoá xã hội.

+ Hoạt động MSMV chưa được quản lý thống nhất, việc cấp mã số thuộc ngân hàng mã số quốc gia cho các doanh nghiêp có thời gian do hai tổ chức cùng thực hiện biệt lập nên gây ra nguy cơ cấp trùng, làm cho các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lúng túng còn tổ chức EAN quốc tế phải lo ngại do không bảo đảm được tính đơn nhất của hệ thống mã EAN. Tình trạng này tồn tại khá dài, không được giải quyết dứt điểm và kịp thời là lý do làm cho việc ứng dụng chậm, chưa có nhiều hiệu quả, việc ứng dụng tự phát, tản mạn, chưa có sự hướng dẫn về công nghệ và kỹ thuật của cơ quan quản lý nhà nước nên đôi khi các doanh nghiệp đã nhập khẩu các thiết bị in đọc và phần mềm MSMV lạc hậu so với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành.

Có thể nói, việc quản lý và ứng dụng công nghệ MSMV thời gian qua tuy có bước tiến bộ ban đầu, nhưng về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập về kinh tế với khu vực và thế giới.

[...]