THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số:
137/2006/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 6 năm 2006
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT “CHIẾN
LƯỢC NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VŨ TRỤ ĐẾN NĂM 2020”
THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ
Căn cứ
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Khoa học và Công nghệ ngày 22 tháng 6 năm 2000;
Căn cứ Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010;
Xét đề nghị của Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
QUYẾT ĐỊNH :
Điều 1. Phê duyệt
“Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ Việt Nam đến năm 2020” kèm
theo Quyết định này.
Điều 2. Tổ chức thực hiện Chiến lược:
Các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có
liên quan thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được giao trong Chiến lược, định kỳ
hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi
hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Học viện Hành chính quốc gia;
- VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, BNC,
Website Chính phủ, Ban Điều hành 112,
Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ,
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KG (5b). A.
|
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Gia Khiêm
|
CHIẾN LƯỢC
NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VŨ TRỤ ĐẾN NĂM 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 137/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ)
MỞ ĐẦU
Công nghệ vũ trụ
(CNVT) là một lĩnh vực công nghệ cao được hình thành nhờ tích hợp nhiều ngành
công nghệ khác nhau nhằm tạo ra các phương tiện như vệ tinh, tàu vũ trụ, tên lửa,
trạm mặt đất, v.v… để khám phá, chinh phục và sử dụng khoảng không vũ trụ phục
vụ lợi ích của con người.
Tháng 10 năm 1957,
Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới. Bốn năm
sau, vào tháng 4 năm 1961, con tàu vũ trụ đầu tiên do phi công vũ trụ người Nga
Y. Gagarin điều khiển đã bay quanh trái đất. Tháng 7 năm 1969, nhà du hành vũ
trụ người Mỹ Neil Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Những sự
kiện lịch sử này đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ của
loài người.
Qua gần 50 năm
phát triển, ngày nay khoa học và công nghệ vũ trụ đã được ứng dụng hết sức rộng
rãi và có hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế,
an ninh, quốc phòng, … của hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới, kể cả
tại nhiều nước đang phát triển. Bước sang thế kỷ 21, một số nước đã đặt mục
tiêu cao hơn: xây dựng căn cứ trên mặt trăng để khai thác và trung chuyển người
lên sao Hoả.
Nhà nước ta đã sớm
nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực khoa học và công nghệ vũ trụ. Ngày
27 tháng 12 năm 1979, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 454/CP
thành lập “Ủy ban Nghiên cứu vũ trụ Việt Nam” và giao cho Ủy
ban thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị nội dung khoa học cho
“Chuyến bay vũ trụ Liên Xô - Việt Nam”. Từ 23 đến 31 tháng 7 năm 1980, chuyến
bay hỗn hợp Xô - Việt đã được thực hiện thành công. Phi công vũ trụ đầu tiên của
Việt Nam Phạm Tuân đã cùng bay với nhà du hành vũ trụ Nga V.V Gorơbatcô và thực
hiện một số thí nghiệm khoa học trong vũ trụ.
Trong những
năm qua, một số thành tựu của khoa học và công nghệ vũ trụ đã được triển khai ứng
dụng ở nước ta, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin liên lạc, khí tượng thủy
văn, viễn thám, định vị nhờ vệ tinh, ... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan, phạm vi và hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng CNVT ở nước ta
còn hạn chế, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
và trong tương lai của đất nước.
Nhằm mục tiêu thúc
đẩy nghiên cứu và ứng dụng CNVT, đưa CNVT phục vụ thiết thực và có hiệu quả sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển kinh tế - xã hội bền vững của
đất nước, từ giữa năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành có liên quan xây dựng đề án “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ
vũ trụ đến năm 2020”. Ngày 31 tháng 12 năm
2003, tại Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
“Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010” trong
đó đã khẳng định CNVT là một trong các hướng công nghệ trọng điểm.
“Chiến lược nghiên
cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” nhằm xác định mục tiêu, nội dung
và giải pháp nghiên cứu và ứng dụng CNVT đến năm 2020 phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội ở nước ta và phân công thực hiện chiến lược giữa các Bộ, ngành, địa
phương.
Nội dung của Chiến
lược gồm 6 phần:
I.
Tình hình phát triển và ứng dụng CNVT trên thế giới.
II.
Tình hình và nhu cầu nghiên cứu và ứng dụng CNVT ở Việt Nam.
III.
Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu của chiến lược.
IV.
Nhiệm vụ.
V.
Các giải pháp.
VI.
Tổ chức thực hiện.
1.
Các xu thế chính phát triển và ứng dụng của CNVT
a) Công nghệ vệ
tinh ngày càng phát triển mạnh, được ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả. Nhờ vệ
tinh, ngày nay hàng tỷ người trên các châu lục khác nhau có thể liên lạc với
nhau hoặc cùng theo dõi tức thời những sự kiện trọng đại của thế giới thông qua
truyền hình, phát thanh,…. Vệ tinh còn tạo khả năng để người dân ở những vùng
sâu, vùng xa có cơ hội học tập, chữa bệnh và thông tin liên lạc thuận tiện.
Trong lĩnh vực vệ
tinh viễn thông, sẽ xuất hiện các vệ tinh thông tin liên lạc hiệu năng cao với
nhiều dịch vụ mới, đặc biệt giải quyết vấn đề thông tin liên lạc giữa các vật
thể đang cùng bay trong vũ trụ.
Ảnh của vệ tinh viễn
thám ngày càng được hoàn thiện theo hướng nâng cao độ phân giải không gian, độ
phân giải phổ và giảm thời gian chụp lặp lại. Các ảnh vệ tinh có độ phân giải
cao và siêu cao (đến dưới 1m) trước đây chỉ được dùng trong quân sự nay đã được
thương mại hoá và được sử dụng rộng rãi vào nhiều mục đích khác nhau.
Các vệ tinh nghiên
cứu trở thành phương tiện không thể thiếu được trong nghiên cứu vật lý thiên
văn, vật lý khí quyển và vật lý địa cầu. Hệ thống vệ tinh quan trắc trọng trường
trái đất, quan trắc độ cao mực nước biển, nhiệt độ hoặc độ mặn của các vùng biển
đạt độ chính xác rất cao cho phép xác định hoạt động thường ngày của bề mặt các
đại dương. Các vệ tinh chuyên dụng quan trắc trường vật lý trái đất và các tham
số khí tượng ngày càng phát triển, tạo ra một công cụ mới phục vụ nghiên cứu
khoa học trái đất và nghiên cứu biến đổi khí hậu toàn cầu.
Công nghệ định vị nhờ
vệ tinh đã đạt được độ chính xác cao, thiết bị gọn nhẹ và đã được áp dụng vào
nhiều lĩnh vực như xây dựng lưới toạ độ trên mặt đất, dẫn đường cho hàng hải,
hàng không, giao thông trên bộ và các loại vũ khí có điều khiển, quan trắc biến
động vỏ trái đất, v.v…. Tại một số nước phát triển, thiết bị định vị nhờ vệ
tinh được dùng rộng rãi trong phương tiện giao thông cá nhân.
Đặc biệt hiện nay,
vệ tinh nhỏ được nhiều nước trên thế giới quan tâm do giá thành thấp mà vẫn đảm
bảo các tính năng cần thiết. Xu thế hợp tác giữa các nước trong việc chia sẻ
thông tin khai thác chùm vệ tinh nhỏ đang ngày càng trở nên phổ biến. Làm chủ
công nghệ vệ tinh nhỏ là một trong những con đường đi vào CNVT có tính khả thi
và phù hợp với các nước đang phát triển. Những năm gần đây nhiều nước đang phát
triển đã lựa chọn công nghệ này để tiếp cận
CNVT như Hàn Quốc, Malayxia, Thái Lan, Singapo, Indonesia, Algeria, Thổ
Nhĩ Kỳ, Nigeria,...
b) Sự tích hợp
công nghệ viễn thám, công nghệ hệ thông tin địa lý và công nghệ định vị nhờ vệ
tinh đã cho phép số hoá công tác đo đạc bản đồ phục vụ cho việc xây dựng các hệ
thống quan trắc môi trường, cảnh báo sớm thảm họa thiên nhiên và quản lý sử dụng
hiệu quả các nguồn tài nguyên.
c) Việc thám hiểm
các hành tinh trong hệ Mặt Trời đạt được nhiều thành tựu mới quan trọng nhờ các
rô bốt đã hạ cánh và hoạt động nhiều tháng trên sao Hoả để chụp ảnh và lấy mẫu
đất đá, các chuyến bay thám hiểm đến sao Thổ và sao Thuỷ. Kế hoạch khai phá mặt
trăng và đưa người lên sao Hoả đang được một số nước triển khai từng bước.
d) Công nghệ vũ trụ
phục vụ quân sự bao gồm nhiều chủng loại vệ tinh như vệ tinh khí tượng, vệ tinh
do thám hình ảnh, vệ tinh do thám tín hiệu, vệ tinh thông tin liên lạc, vệ tinh
định vị dẫn đường và các vệ tinh hỗ trợ phòng thủ... đã trở thành một nhân tố
quan trọng không thể thiếu được để giành chiến thắng trong chiến tranh hiện đại.
2. Bài học kinh nghiệm về phát triển CNVT của một số nước
Tiếp theo hai nước
Nga, Mỹ, các nước như Trung Quốc, Anh, Pháp, Canada, Nhật và Ấn Độ đã sớm phát
triển công nghệ vũ trụ và đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Ngày nay, nhiều nước
đang phát triển cũng đã thành công trong việc tiếp cận làm chủ và ứng dụng có
hiệu quả các thành tựu của CNVT để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá
và an ninh, quốc phòng của đất nước mình. Từ kinh nghiệm thành công của các nước,
có thể rút ra các bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam.
a) Bài học đầu
tiên, quan trọng nhất để đi đến thành công trong nghiên cứu và ứng dụng vũ trụ
là cần có quyết tâm cao của cấp lãnh đạo đất nước trong việc phát huy nội lực,
kết hợp với học tập kinh nghiệm của các nước để nghiên cứu và phát triển CNVT.
b) Bài học thành
công thứ hai là đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm và công nghệ để
phát triển có hiệu quả, nhanh và bền vững. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công
nghệ vũ trụ được tổ chức dưới nhiều hình thức: song phương, đa phương, khu vực,
quốc tế. Các nước thành viên tham gia Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) đang thực hiện
dự án hợp tác Galileo phục vụ cho việc định vị và dẫn đường là đối trọng với hệ
thống định vị toàn cầu GPS của Mỹ. Dự án hợp tác xây dựng trạm vũ trụ quốc tế
ISS được coi là dự án phức tạp nhất và lớn nhất trong lịch sử phát triển công
nghệ vũ trụ hiện đang được triển khai.
c) Bài học
thành công thứ ba của các nước đi sau và các nước đang phát triển là phải lựa
chọn hướng đi đúng và bước đi thích hợp trong nghiên cứu và ứng dụng CNVT.
Không phải nước nào cũng đủ điều kiện để đi ngay vào các lĩnh vực CNVT phức tạp
và tốn kém như công nghệ tên lửa đẩy, tàu vũ trụ có người lái hoặc các trạm
không gian,...
Các bước phát triển
CNVT của Hàn Quốc, Malayxia, Thái Lan, Indonesia… là những kinh nghiệm quý cho
phát triển và ứng dụng CNVT ở Việt Nam. Trong đó, việc đầu tư cơ sở hạ tầng
CNVT, đầu tư tới mức cho nghiên cứu và hợp tác quốc tế nhằm tiếp thu công nghệ
tiên tiến và tập trung xây dựng các trung tâm mạnh về công nghệ vũ trụ gồm các
viện nghiên cứu và các trường đại học là nội dung có tính chất then chốt.
1. Tình hình
nghiên cứu khoa học và công nghệ vũ trụ
Trong khoảng 30
năm vừa qua, nước ta đã có những hoạt động nghiên cứu bước đầu trong một số
lĩnh vực khoa học và công nghệ vũ trụ. Đó là các đề tài nghiên cứu về vật lý vũ
trụ và công nghệ vũ trụ trong Chương trình khoa học của chuyến bay vũ trụ phối
hợp Liên Xô - Việt Nam, thực hiện trong các năm 1981 - 1982, và trong Chương
trình nghiên cứu cấp nhà nước 48.07 “Ứng dụng thành tựu nghiên cứu và sử dụng
khoảng không vũ trụ”, thực hiện trong giai đoạn 1981 - 1985. Cùng với các
kết quả về thực nghiệm, một số công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố
trên các tạp chí khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước hoặc báo cáo tại hội nghị
khoa học quốc tế.
Trong những năm gần
đây, nhà nước đã đầu tư cho Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trung tâm Khoa
học kỹ thuật - Công nghệ Quân sự, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà
Nội, v.v… nhiều phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu khoa học công nghệ trong
các lĩnh vực liên quan đến CNVT như điện tử - viễn thông, công nghệ thông tin,
điều khiển tự động, công nghệ vật liệu, điện mặt trời. Các phòng thí nghiệm này
sẽ là tiền đề tiếp nối cho việc xây dựng các phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng
dụng CNVT trong thời gian tới.
2. Tình hình ứng dụng CNVT ở Việt Nam
Nước ta đã
sớm ứng dụng các thành tựu của CNVT vào các lĩnh vực khí tượng - thủy văn,
thông tin liên lạc, viễn thám và định vị nhờ vệ tinh.
a) Khí tượng - thủy
văn
Khí tượng là ngành
đầu tiên ở nước ta đã được tiếp cận với việc ứng dụng thành tựu của CNVT vào
công tác thực tiễn của ngành. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, tại Tổng cục
Khí tượng Thủy văn đã lắp đặt Trạm APT thu ảnh mây vệ tinh mang nhãn hiệu URAL
do Liên Xô trang bị và đã sử dụng để thu các ảnh mây từ các vệ tinh có quỹ đạo
cực như METEOR, TIROS, NOAA... Trạm này đã cung cấp hằng ngày các ảnh chụp đen
trắng phục vụ theo dõi các trường mây và sự
chuyển động của các mắt bão. Trong giai đoạn 1986 - 1988, thông qua Dự
án phát triển của Liên hợp quốc VIE 80/051, Tổng cục Khí tượng - Thủy
văn đã được trang bị 3 Trạm thu ảnh mây Vệ tinh địa tĩnh GMS đặt tại Hà Nội, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cho tới thời gian này việc phân tích
các ảnh chụp của vệ tinh chủ yếu vẫn là bằng mắt. Năm 1997, Tổng cục Khí tượng
- Thủy văn đã được trang bị một Trạm thu ảnh vệ tinh có độ phân giải cao, có thể
thu được các ảnh đa phổ từ vệ tinh GMS, NOAA. Các ảnh loại này có độ chính xác
cao hơn nhiều so với các ảnh trước đây, đã góp phần nâng cao chất lượng phát hiện,
theo dõi và dự báo bão và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm. Hiện nay, các
thông tin vệ tinh đã được sử dụng như những tư liệu không thể thiếu được trong
công tác dự báo khí tượng - thủy văn hàng ngày và có nghĩa đặc biệt quan trọng
trong tình huống thời tiết xấu hoặc nguy hiểm, khi hệ thống thông tin liên lạc
thông thường bị gián đoạn và số liệu quan trắc bằng các phương pháp thông thường
không chuyển được kịp thời về trung tâm dự báo. Gần đây các phương pháp dự báo
số trị, dựa trên các thông tin vệ tinh và các mô hình tính toán, xử lý song
song được triển khai áp dụng, đã góp phần rút ngắn thời gian và tăng độ chính
xác dự báo. Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng đã chế tạo và cung cấp các
trạm thu ảnh vệ tinh khí tượng với giá rẻ so với giá nhập ngoại.
Các ứng dụng đã và đang triển khai trong lĩnh vực khí tượng thuỷ văn ở
nước ta, tuy mới là những kết quả bước đầu, đã tạo tiền đề tốt cho việc sử dụng
thành tựu của CNVT phục vụ ngày càng hiệu quả hơn các nhiệm vụ của ngành Khí tượng
- Thủy văn trong nước và tạo điều kiện để nước ta hội nhập vào các nỗ lực quốc
tế nhằm giải quyết các vấn đề khí tượng toàn cầu đang được thế giới đặc biệt
quan tâm như suy giảm tầng ôzôn và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm các thảm hoạ
thiên nhiên như động đất, sóng thần, bão, lụt ...
b) Thông tin liên lạc
Từ năm 1980 đến
nay, các ngành bưu chính viễn thông, phát thanh, truyền hình, hàng hải đã lắp đặt
và đưa vào khai thác nhiều trạm mặt đất như: trạm Hoa Sen (thông tin qua hệ
Intersputnik), trạm VISTA (thông tin qua hệ Intelsat), mạng các trạm VSAT, trạm
truyền chương trình số hoá qua vệ tinh và mạng TVRO, trạm Inmarsat ven biển.
Năm 1996, Chính phủ
giao cho Tổng cục Bưu điện lập báo cáo tiền khả thi dự án VINASAT - dự án thuê
chế tạo và phóng vệ tinh viễn thông riêng của Việt Nam. Năm 1998, báo cáo tiền
khả thi được thông qua. Tổng cục Bưu điện làm thủ tục đăng ký với ITU và triển
khai đàm phán về vị trí quỹ đạo. Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông đã hoàn
thành báo cáo nghiên cứu khả thi, đã được Chính phủ thông qua và hiện nay đang
triển khai, đến năm 2008 vệ tinh có thể hoạt động được trên quỹ đạo. Song song
với việc triển khai dự án VINASAT, trong những năm qua, ngành bưu chính viễn
thông cũng đã tiến hành công tác đào tạo, bằng nhiều hình thức, đội ngũ cán bộ
kỹ thuật có đủ năng lực đảm nhận những công việc chuyên môn mà ở các nước đang
phát triển thường phải nhờ đến chuyên gia tư vấn nước
ngoài.
c) Viễn thám
Quan sát trái đất
từ vũ trụ (gọi tắt là viễn thám) là một chuyên ngành ứng dụng CNVT, chủ yếu dựa
trên việc thu, xử lý và sử dụng các ảnh chụp trái đất từ vệ tinh. Viễn thám được
đưa sớm vào Việt Nam từ những năm 70 của thế kỷ trước, mở đầu là việc các ảnh
chụp các phần lãnh thổ Việt Nam từ vệ tinh được sử dụng trong ngành lâm nghiệp
và địa chất, sau đó đã mở rộng dần việc ứng dụng trong các lĩnh vực khác như
nông nghiệp, giám sát môi trường và thiên tai, quy hoạch lãnh thổ, nghiên cứu
khoa học v.v…Việc ứng dụng viễn thám được mở rộng cả về quy mô lẫn chất lượng
thông qua Chương trình nghiên cứu cấp nhà nước giai đoạn 1981 - 1985 ''Ứng dụng
thành tựu nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ'', mã số 48-07.
Hiện nay số lượng
các cơ quan chuyên về viễn thám tại các Bộ, ngành, địa phương và tại các Viện
nghiên cứu, các trường đại học đã lên tới vài chục đơn vị với hàng trăm cán bộ
được đào tạo chính quy trong và ngoài nước. Viễn thám đã trở thành một công cụ
được sử dụng tương đối phổ biến ở nước ta trong nghiên cứu khoa học, trong một
số lĩnh vực quản lý và sản xuất thuộc các ngành đo đạc bản đồ, nông nghiệp, thuỷ
sản, tài nguyên và môi trường,.... Được Nhà nước đầu tư, nhiều đơn vị của Bộ
Tài nguyên và Môi trường như Trung tâm Viễn thám, Viện Nghiên cứu Địa chính, Viện
Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản đã tiến hành nhiều đề tài liên quan đến viễn
thám nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác điều tra cơ bản. Nhiều
công trình nghiên cứu khoa học về ứng dụng viễn thám đã được thực hiện tại Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và một số trường đại học trong các lĩnh vực như
hải dương học, sinh thái, khoa học trái đất, nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên
và quy hoạch phát triển,....
Từ nhiều năm nay
chúng ta đã thu thập được nhiều ảnh vệ tinh viễn thám từ nhiều nguồn khác nhau
theo nhiều thời gian khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay chúng ta mới chỉ có được
2 bộ ảnh phủ kín lãnh thổ Việt Nam (chủ yếu là trên đất liền), mỗi bộ ảnh lại
không cùng thời gian, phải kéo dài trong nhiều năm đó là: trong dự án VIE
78/011 (1978 - 1982) và dự án VIE 83/004 (1984 - 1986) đã thu gom được 1 bộ ảnh
vệ tinh LANDSAT phủ kín lãnh thổ Việt Nam kéo dài trong suốt những năm 70 của
thế kỷ trước. Trong dự án Viễn thám lập bản đồ của Tổng cục Địa chính 2000 -
2001 cũng đã thu gom được 1 bộ ảnh SPOT chụp phủ kín lãnh thổ Việt Nam, kéo dài
trong các năm 1995, 1997, 2000. Việc thiếu tư liệu viễn thám hoặc có tư liệu
nhưng không đồng bộ về thời gian và chủng loại đã hạn chế nhiều đến hiệu quả ứng
dụng viễn thám trong thực tế.
Để khắc phục tình
trạng này và thúc đẩy việc sử dụng viễn thám trong quản lý tài nguyên và môi
trường, năm 2004 Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ
trì thực hiện dự án xây dựng Trạm thu và Trung tâm xử lý ảnh vệ tinh, với tổng
kinh phí khoảng 20 triệu euro bằng nguồn vốn vay ODA. Khi dự án này được hoàn
thành, nguồn tư liệu ảnh viễn thám sẽ được cung cấp chủ động hơn.
d) Định vị nhờ vệ tinh
Định vị nhờ vệ
tinh là một lĩnh vực ứng dụng quan trọng của công nghệ vũ trụ đang và sẽ phát
triển mạnh, có khả năng ứng dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực trắc
địa, xác định toạ độ, điều khiển và quản lý giao thông, .... Tại Việt Nam, các
cơ quan địa chính đã ứng dụng công nghệ định vị nhờ vệ tinh để thành lập lưới
toạ độ quốc gia từ những năm 90 của thế kỷ trước. Công nghệ này đã được thực tế
sản xuất tiếp nhận; lưới toạ độ quốc gia tại 3 khu vực địa hình khó khăn nhất
là Tây Nguyên, Sông Bé và Minh Hải và lưới toạ độ quốc gia cho nước bạn Lào đã
được xây dựng. Từ năm 1995 đến năm 2000, Tổng
cục Địa chính đã xây dựng lưới toạ độ GPS cấp ''0'', xây dựng Hệ quy chiếu và Hệ
tọa độ quốc gia VN - 2000. Từ năm 2000, hệ thống 6 trạm định vị cố định tại Hải
Phòng, Vũng Tầu, Điện Biên, Hà Giang, Cao Bằng, Đà Nẵng đã được xây dựng nhằm đảm
bảo định vị và dẫn đường độ chính xác cao trên toàn lãnh thổ và vùng biển nước
ta. Đến nay 5 trạm đã đi vào hoạt động phục vụ đo đạc biển, đo đạc địa hình,
phân giới và cắm mốc biên giới Việt - Trung, Việt - Lào. Công nghệ định vị nhờ
vệ tinh cũng đã được ứng dụng trong quan trắc biến động vỏ trái đất, quản lý
đánh bắt thủy sản xa bờ,...
3. Sự cần thiết, cấp bách của việc đẩy
mạnh nghiên cứu và ứng dụng CNVT
Trong khoảng 30
năm vừa qua, lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng CNVT đã có một số đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại hóa, bảo
đảm quốc phòng an ninh.
Hiện nay, với xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ, cùng với sự phát triển nhanh chóng và hiệu
quả của các lĩnh vực KHCN có liên quan như công
nghệ thông tin, cơ khí, điện tử, công nghệ vật liệu, ... đã và đang tạo các điều
kiện rất thuận lợi cho việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng CNVT ở nước
ta.
Tuy nhiên, do
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta còn thấp và nhận thức của các
cấp, các ngành trong những năm qua về vai trò của CNVT còn chưa đầy đủ, nên việc
nghiên cứu và ứng dụng CNVT ở nước ta còn tản mạn, thiếu định hướng và sự phối
hợp liên ngành. Chúng ta chưa có chính sách quốc gia về nghiên cứu và ứng dụng
CNVT. Đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực này còn ít, lại thiếu tập trung, nên hiệu
quả chưa cao. Cho đến nay, hạ tầng CNVT của nước ta hầu như chưa có gì đáng kể,
lực lượng cán bộ còn quá ít và bị phân tán. Về mặt tổ chức, nước ta cũng chưa
có một cơ quan cấp quốc gia được chính thức giao nhiệm vụ phối hợp ứng dụng,
nghiên cứu phát triển CNVT vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Tình
hình trên nếu không sớm khắc phục sẽ dẫn đến nguy cơ ngày càng tụt hậu, ngay cả
so với nhiều nước trong khu vực, không tận dụng được những tiềm năng, cơ hội
phát triển và hiệu quả to lớn mà lĩnh vực CNVT có thể mang lại nhằm góp phần
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường sức mạnh phòng thủ
của đất nước và hội nhập quốc tế.
Để CNVT có đóng
góp một cách có hiệu quả nhất vào sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước, đặc
biệt trong tình hình thế giới và trong nước hiện nay, góp phần thực hiện mục
tiêu đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản thành một nước công nghiệp hóa, việc
xây dựng và tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả Chiến lược nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020 là thực sự cần thiết và cấp bách.
1. Quan
điểm chỉ đạo
Nghiên cứu và ứng
dụng CNVT ở Việt Nam cần được triển khai theo các quan điểm chỉ đạo sau:
a) Phục vụ thiết
thực và có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quản lý tài
nguyên, giám sát môi trường và thiên tai cũng như nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc theo
đúng phương châm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ an ninh - quốc
phòng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế, tiềm lực khoa học công nghệ và sức mạnh
của đất nước.
b) Đi thẳng vào
công nghệ hiện đại, đồng thời phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước, phát huy tối đa tiềm lực trí tuệ con người
Việt Nam; bắt đầu từ việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, tiến tới cải tiến và
làm chủ công nghệ.
c) Mở rộng quan hệ quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá nhưng có lựa chọn
trọng điểm nhằm thu hút đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, tiếp thu công nghệ hiện
đại để đẩy nhanh quá trình ứng dụng và phát triển CNVT ở Việt Nam.
d) Chính phủ quản lý,
điều phối chung, tăng cường phối hợp liên ngành và huy động nguồn lực của toàn
xã hội trong việc ứng dụng CNVT, phấn đấu hoàn thành đúng kế hoạch tiến độ, đảm
bảo chất lượng từng nhiệm vụ cụ thể và toàn bộ chiến lược.
2. Mục tiêu
Mục tiêu đến năm 2010:
a) Hình thành
chính sách quốc gia và khung pháp lý về nghiên cứu, ứng dụng và hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực CNVT, các chính sách bảo đảm nguồn nhân lực, bảo đảm vốn đầu tư cho nghiên cứu và ứng dụng CNVT; hình thành
cơ quan chỉ đạo quản lý, phối hợp hoạt động nghiên cứu và ứng dụng CNVT ở cấp
Trung ương; từng bước kiện toàn về mặt tổ chức, cơ sở vật chất và năng lực
chuyên môn của hệ thống các đơn vị nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng CNVT ở nước
ta, trong đó xây dựng mới một viện chuyên ngành về KHCN vũ trụ.
b) Xây dựng hạ tầng
ban đầu về CNVT bao gồm: Trạm thu và Trung tâm xử lý ảnh vệ tinh, hệ thống trạm
định vị nhờ vệ tinh; phóng và đưa vào hoạt động, khai thác vệ tinh viễn thông địa
tĩnh VINASAT; tiếp nhận chuyển giao công nghệ vệ tinh nhỏ; hoàn thành thiết kế,
chế tạo và phóng 1 vệ tinh nhỏ quan sát trái đất; hoàn thành xây dựng và
đưa vào hoạt động khai thác các trạm điều khiển mặt đất tương ứng.
c) Hình thành và tổ
chức thực hiện chương trình KHCN độc lập về CNVT. Tổ chức đào tạo kỹ sư CNVT
trong nước; hợp tác nghiên cứu và đào tạo với các nước có ngành khoa học công
nghệ vũ trụ phát triển để có được một số chuyên gia trình độ cao, tự chế tạo được
một số sản phẩm phần cứng (các thiết bị của trạm thu) và phần mềm (phần mềm xử
lý ảnh, phần mềm mã hoá, bảo mật thông tin, phần mềm trợ giúp thiết kế vệ
tinh…).
d) Đạt trình độ
trung bình trong khu vực về cơ sở hạ tầng và nghiên cứu và ứng dụng CNVT.
Mục tiêu đến
năm 2020:
a) Làm chủ công nghệ
chế tạo các trạm mặt đất, tự chế tạo các trạm mặt đất có giá cạnh tranh; làm chủ
công nghệ vệ tinh nhỏ, tự thiết kế và chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát trái đất;
làm chủ được công nghệ và kỹ thuật tên lửa; đào tạo được đội ngũ cán bộ trình độ
cao, đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ vũ trụ ở Việt Nam, nâng cấp
và phát huy hiệu quả cơ sở vật chất đã đầu tư trong giai đoạn trước.
b) Nâng cấp hạ tầng
ban đầu thông qua việc chuẩn bị phương án và kế hoạch phóng vệ tinh viễn thông
thứ hai đáp ứng đủ nhu cầu khai thác dịch vụ viễn thông, phát thanh truyền hình
trong nước. Chế tạo và phóng thêm một số vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, thay thế
một phần nhu cầu mua ảnh vệ tinh của nước ngoài; hoàn chỉnh hệ thống các trạm định
vị nhờ vệ tinh.
c) Đưa các ứng dụng
của CNVT vào phục vụ rộng rãi và thường xuyên cho nhu cầu của các ngành sản xuất,
dịch vụ, giáo dục, y tế,... Mở rộng và thương mại hoá các sản phẩm ứng dụng
CNVT.
d) Đạt trình độ
trung bình khá trong khu vực về nghiên cứu và ứng dụng CNVT.
IV. NHIỆM VỤ
1. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về
nghiên cứu và ứng dụng CNVT
Nhiệm vụ này phải được cơ bản hoàn thành
trong giai đoạn 2006 - 2010, với các nội dung sau:
a) Nghiên cứu các
luật quốc tế và các quy định sử dụng khoảng không vũ trụ để đảm bảo chủ quyền
quốc gia.
b) Xây dựng và
hoàn thiện các văn bản pháp quy chung của Nhà nước và của các ngành, liên quan
đến việc nghiên cứu và ứng dụng CNVT.
c) Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về lưu trữ, quản lý, khai
thác và sử dụng ảnh vệ tinh và các thông tin dẫn suất như bản đồ, cơ sở dữ liệu.
d) Xây dựng và ban
hành quy định về bảo mật liên quan đến chương trình nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ vũ trụ Việt Nam.
đ) Xây dựng và ban
hành các tiêu chuẩn định dạng và định chuẩn trong việc ứng dụng và phát triển
công nghệ vũ trụ, bảo đảm sự tương thích trong nước và ra quốc tế.
2. Xây dựng cơ sở hạ tầng cho CNVT
Trong các năm
2006 - 2010 thực hiện các nhiệm vụ:
a) Xây dựng trạm
thu và Trung tâm xử lý ảnh vệ tinh phục vụ chung cho các ngành kinh tế quốc dân
và nghiên cứu khoa học; trạm thu chuyên dụng; nhận chuyển giao công nghệ thiết
kế, chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát trái đất; phóng một vệ tinh nhỏ quan sát trái
đất.
b) Triển khai dự
án VINASAT.
c) Xây dựng một phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ vũ trụ.
Trong các năm
2011 - 2020 thực hiện các nhiệm vụ:
a) Xây dựng thêm một
số phòng thí nghiệm đặt tại các trường Đại học. Danh mục các phòng thí nghiệm
này sẽ được bổ sung cụ thể hơn trên cơ sở kết quả hoạt động giai đoạn 2006 -
2010.
b) Tự chế tạo và
thuê phóng 2 vệ tinh nhỏ quan sát trái đất.
3. Nghiên cứu khoa học và công nghệ vũ trụ
Trong các năm
2006 - 2010 xây dựng và bắt đầu triển khai Chương
trình Khoa học Công nghệ độc lập về CNVT giai đoạn 2006 - 2010, do Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam chủ trì để tập hợp đội ngũ cán bộ khoa học trong và ngoài
nước thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của Chiến lược, bao gồm:
a) Nghiên cứu, chế
tạo các trạm mặt đất.
b) Nghiên cứu tiếp
thu công nghệ vệ tinh nhỏ.
c) Nghiên cứu tiếp
cận một số công nghệ cao như: công nghệ quan sát quang học độ phân giải cao,
công nghệ vệ tinh radar, công nghệ vệ tinh thông tin tốc độ cao.
d) Nghiên cứu cơ bản
chọn lọc liên quan đến việc phát triển công nghệ vũ trụ.
đ) Nghiên cứu khí
cầu thả ở tầng bình lưu phục vụ thông tin liên lạc và truyền hình.
e) Nghiên cứu chế
tạo một số thiết bị mặt đất và phần mềm.
Trong các năm
2011 - 2020 Chương trình Khoa học Công nghệ độc lập về
CNVT tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
a) Cải tiến và tiến tới làm chủ việc chế tạo các trạm mặt đất với giá cạnh
tranh.
b) Cải tiến
và tiến tới làm chủ công nghệ vệ tinh nhỏ.
c) Lựa chọn công
nghệ chế tạo phương tiện phóng vệ tinh nhỏ lên quỹ đạo thấp.
d) Chế tạo một số
thiết bị vũ trụ.
4. Ứng dụng
CNVT
Để CNVT được ứng dụng
rộng rãi và đem lại hiệu quả thiết thực, các Bộ, ngành có trách nhiệm căn cứ
vào nhu cầu và điều kiện để xây dựng và cụ thể hoá các nhiệm vụ ứng dụng công
nghệ vũ trụ của ngành mình trên cơ sở các định hướng lớn như sau:
Trong các năm
2006 - 2010 việc ứng dụng công nghệ vũ trụ ở Việt Nam
cần được đẩy mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong 4 lĩnh vực chính là
thông tin liên lạc, khí tượng thủy văn, viễn thám, định vị nhờ vệ tinh. Đến năm
2010, việc ứng dụng công nghệ vũ trụ phải trở thành quy trình nghiệp vụ có hiệu
quả cao của các ngành. Cụ thể:
- Bưu chính - viễn
thông, phát thanh truyền hình: phát triển mạnh các dịch vụ nhằm khai thác triệt
để vệ tinh VINASAT, phát triển các hình thức dạy học từ xa, khám bệnh từ xa, hội
nghị từ xa, truyền hình DTH.
- Khí tượng thủy
văn, tài nguyên môi trường: nâng cao chất lượng dự báo sớm mưa bão, lũ, lũ
quét, trượt lở đất và các loại thiên tai khác. Đánh giá ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu toàn cầu đến Việt Nam. Định kỳ đánh giá biến động sử dụng đất đai, xây
dựng cơ sở dữ liệu bản đồ chuyên đề số hoá dùng chung cho nhiều cơ quan từ
trung ương đến địa phương.
- Nông nghiệp, thuỷ
sản, điều tra tài nguyên: mở rộng ứng dụng viễn thám trong việc xây dựng quy
trình dự báo sản lượng lúa tại các vùng trồng lúa trọng điểm, dự báo úng lụt,
khô hạn, cháy rừng; trong quy hoạch nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá đại
dương; trong nghiên cứu phát hiện tài nguyên dầu khí, nước ngầm, v.v…
- Giao thông vận tải,
quốc phòng - an ninh: ngoài việc khai thác vệ tinh VINASAT, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ định vị nhờ vệ tinh phục vụ dẫn đường trong giao thông đường bộ, hàng
không và hàng hải. Khuyến khích các tổ chức kinh tế tham gia đầu tư làm dịch vụ
và ứng dụng công nghệ định vị và dẫn đường.
Trong các năm
2011 - 2020 đưa vào ứng dụng tại Việt Nam các thành tựu
mới của vệ tinh Internet thế hệ 2, vệ tinh quan sát trái đất độ phân giải siêu
cao, vệ tinh định vị có độ chính xác cao, thiết bị mặt đất gọn nhẹ tích hợp nhiều
chức năng.
1. Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực
Phổ biến kiến thức
về CNVT rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt cho học
sinh, sinh viên. Tổ chức biên soạn chương trình và giáo trình cho các chuyên
ngành trong lĩnh vực CNVT ở bậc đại học và trên đại học. Tổ chức thí điểm để xây
dựng và vận hành cơ chế tuyển dụng, đào tạo, sử dụng người tài trong và ngoài
nước gắn với nghiên cứu và thị trường; sớm gửi đi đào tạo bằng nguồn ngân sách tại các nước phát triển về
lĩnh vực CNVT nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp bách trước mắt và phù hợp với mục
tiêu đã nêu trong Chiến lược; cần có kế hoạch cập nhật những tiến bộ mới và đào
tạo lại, cử chuyên gia Việt Nam tham gia các chương trình hợp tác với nước
ngoài trong lĩnh vực CNVT.
2. Hợp tác quốc
tế
Tiếp tục tham gia
các hoạt động về CNVT do các cơ quan Liên hợp quốc như OOSA (Office for Outer
Space Affairs), UN- ESCAP, UNESCO, v.v... và do ASEAN tổ chức; xem xét và ký kết
dự án hợp tác nghiên cứu phát triển CNVT với một số nước có điều kiện thuận lợi.
Xây dựng quan hệ đối
tác với các nước có chung nhu cầu và lợi ích, đặc biệt trong khu vực Đông Nam Á
và châu Á - Thái Bình Dương. Nghiên cứu hình thành các hình thức hợp tác song
phương, đa phương trong việc xây dựng và khai thác các cơ sở hạ tầng (như trạm
mặt đất, các vệ tinh thông tin liên lạc và viễn thám) và chia sẻ cơ sở dữ liệu
viễn thám, đặc biệt trong việc cảnh báo thiên tai và quản lý môi trường.
Tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài hoạt
động trong lĩnh vực CNVT tham gia công tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ chuyên
môn trong nước.
3. Cơ chế huy động và sử dụng nguồn vốn
Cần huy động tất cả
các thành phần kinh tế tham gia đầu tư thực hiện chiến lược nghiên cứu và ứng dụng
CNVT. Vốn ngân sách, vốn vay ODA đầu tư cho các nhiệm vụ nghiên cứu và thử nghiệm,
xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm…, đào tạo cán bộ tại nước ngoài và một số
nhiệm vụ cần thiết khác. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích đầu
tư, đưa kết quả việc nghiên cứu ứng dụng CNVT thành sản phẩm hàng hóa ra thị
trường.
1. Thành lập Ủy ban Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ vũ trụ Việt Nam gọi
tắt là Ủy ban Vũ trụ Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức chỉ đạo thực
hiện ''Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020".
2. Phân công
trách nhiệm thực hiện
a) Bộ Khoa học và
Công nghệ, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động nghiên cứu, ứng dụng CNVT, chủ
trì thực hiện Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020,
có nhiệm vụ:
- Chủ trì xây dựng
và chỉ đạo thực hiện các văn bản pháp quy về nghiên cứu, ứng dụng CNVT, quy chế
phối hợp khai thác các cơ sở CNVT dùng chung của các Bộ, ngành.
- Chỉ đạo việc xây
dựng, phê duyệt chương trình khoa học công nghệ độc lập về CNVT, dự án phòng
thí nghiệm trọng điểm về CNVT.
- Chỉ đạo việc xây
dựng, phê duyệt các dự án ứng dụng CNVT trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Phối hợp với Bộ
Kế hoạch và Đầu tư thẩm định về mặt công nghệ các dự án đầu tư trong lĩnh vực
CNVT.
- Trình Thủ tướng
Chính phủ thay đổi cơ quan chủ trì nếu mục tiêu, tiến độ thực hiện nhiệm vụ
không đảm bảo.
- Trình Thủ tướng
Chính phủ những vấn đề phát sinh vượt thẩm quyền.
b) Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam:
- Nghiên cứu các vấn
đề cơ bản có chọn lọc liên quan đến khoa học và công nghệ vũ trụ.
- Chủ trì việc
nghiên cứu và phát triển công nghệ vệ tinh nhỏ.
- Chủ trì xây dựng,
trình duyệt, tổ chức thực hiện chương trình khoa học công nghệ độc lập về CNVT,
dự án phòng thí nghiệm trọng điểm về CNVT.
- Xây dựng Viện
Công nghệ vũ trụ trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
- Thực hiện nhiệm vụ
Văn phòng thường trực của Ủy ban Vũ
trụ Việt Nam.
c) Bộ Văn hoá - Thông tin
Chủ trì công tác thông tin,
tuyên truyền, kể cả tuyên truyền đối ngoại về Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng
CNVT.
d) Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành xây dựng chương trình khung, biên soạn giáo trình và quy định mã ngành
đào tạo các chuyên ngành CNVT, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo nhân lực
khoa học - công nghệ vũ trụ phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện
cơ chế gắn kết giữa giáo dục và đào tạo với nghiên cứu và ứng dụng, cơ chế phối
hợp giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu để thực hiện chiến lược.
đ) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan liên quan cân đối vốn và đưa vào kế hoạch nhà nước các kế hoạch 5 năm và
hàng năm để thực hiện Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng CNVT.
- Vận động nguồn vốn ODA của các
nước tài trợ cho các dự án nghiên cứu, ứng dụng CNVT.
e) Bộ Tài chính:
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan
liên quan xây dựng cơ chế hỗ trợ tín dụng nhà nước, cơ chế quản lý vốn các dự
án thực hiện Chiến lược theo Luật Ngân sách.
g) Bộ Bưu chính, Viễn thông:
- Quản lý nhà nước các dự án vệ
tinh viễn thông, trước mắt dự án VINASAT.
- Chịu trách nhiệm đăng ký vị
trí quỹ đạo, tần số cho nhu cầu phát triển vệ tinh viễn thông, vệ tinh quan sát
và là đầu mối hợp tác quốc tế về vị trí quỹ đạo vệ tinh và phối hợp tần số quốc
tế.
- Tham gia nghiên cứu, sản xuất
chế tạo các thiết bị viễn thông, điện tử, tin học dùng cho CNVT.
h) Bộ Tài nguyên và Môi trường:
- Chủ
trì việc khai thác có hiệu quả cao các thông tin thu được từ các vệ tinh khí tượng
phục vụ công tác dự báo khí tượng - thủy văn.
- Chủ
trì xây dựng và khai thác Trạm thu và Trung tâm xử lý ảnh vệ tinh phục vụ các
ngành thuộc khối dân sự theo quy chế phối hợp khai thác các cơ sở CNVT dùng
chung của các Bộ, ngành được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chủ
trì việc ứng dụng viễn thám trong công tác đo đạc và bản đồ, trong theo dõi diễn
biến đất đai, tài nguyên nước và khoáng sản.
- Phối
hợp với các đơn vị khác, ứng dụng công nghệ viễn thám trong theo dõi và quản lý
tài nguyên - môi trường ở Việt Nam.
i) Các Bộ: Quốc phòng, Công an
chủ trì xây dựng, trình duyệt, tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng
CNVT trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
k) Bộ Công nghiệp
Nghiên
cứu ứng dụng CNVT trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam.
l) Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn:
- Ứng
dụng viễn thám theo dõi úng lụt, khô hạn.
- Chủ
trì ứng dụng viễn thám theo dõi diễn biến mùa màng.
- Chủ trì ứng dụng viễn thám theo dõi diễn biến tài
nguyên rừng, cháy rừng.
m) Bộ Thuỷ sản:
Nghiên
cứu ứng dụng viễn thám phục vụ quy hoạch nuôi trồng thủy sản và đánh bắt hải sản.
n)
Bộ Giao thông vận tải:
- Chủ
trì việc sử dụng thông tin vệ tinh hướng dẫn tầu ra vào cảng.
- Chủ trì việc ứng dụng công nghệ vũ trụ trong ngành hàng
không dân dụng.
- Sử dụng
viễn thám, công nghệ định vị nhờ vệ tinh và GIS ứng dụng trong việc quy hoạch mạng
lưới giao thông.
o) Bộ Ngoại giao:
- Phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan phát triển hợp tác quốc tế về CNVT, bao gồm cả việc tham gia và thực
hiện các Điều ước quốc tế về CNVT.
- Vận động trí thức Việt Nam ở
nước ngoài tham gia vào các hoạt động liên quan đến khoa học và công nghệ vũ trụ
ở Việt Nam.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
theo chức năng và nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao, phối hợp với Ủy ban
Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ vũ trụ Việt Nam và các Bộ, cơ quan liên quan,
tổ chức, chỉ đạo thực hiện ''Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ
đến năm 2020''./.