HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
111/CP
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 4 năm 1977
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC BAN HÀNH CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT
CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ CỦA CÁC TỈNH PHÍA NAM
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Tiếp theo bản tuyên bố của Chính
phủ về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam hiện nay;
Để tăng cường quản lý nhà đất và
đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh
phía Nam;
Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng
Bộ Xây dựng và của đồng chí Trưởng Ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh
Trung ương trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 25/2/1977;
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Nay ban hành kèm
theo quyết định này bản chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nhà đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam.
Điều 2. Các đồng chí Thủ
trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các
đồng chí chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam có
trách nhiệm thi hành quyết định này, các đồng chí Bộ trưởng các Bộ Xây dựng,
Nội vụ, Ngoại giao và các đồng chí Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư
doanh Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn các ngành, các cấp thi hành quyết
định này, tuỳ theo chức năng quản lý và những vấn đề có liên quan đến ngành
mình.
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ CÁC TỈNH PHÍA NAM
(Ban hành theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14/4/1977)
MỤC
ĐÍCH YÊU CẦU
Việc quản lý và cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị, các tỉnh phía Nam cần đạt được mục đích, yêu cầu sau đây:
- Xoá bỏ kinh doanh bóc lột về
nhà đất; thực hiện thống nhất quản lý của Nhà nước về nhà đất ở đô thị.
- Cải tạo đến đâu, quản lý tốt đến
đó, đồng thời tiến hành quy hoạch, bố trí, sắp xếp điều chỉnh lại những khu vực
sản xuất, khu vực hành chính, sự nghiệp, khu vực ở và các cơ sở phúc lợi công
cộng... sao cho công bằng; hợp lý và có lợi nhất, trên tinh thần tận dụng cơ sở
sẵn có, kết hợp với xây dựng mới; từng bước giải quyết chỗ làm việc cho cơ quan
Nhà nước và chỗ ở cho công nhân, nhân viên và nhân dân lao động chưa có chỗ ở
hoặc ở quá chật, cải thiện từng bước điều kiện nhà ở của nhân dân góp phần ổn
định và phát triển sản xuất.
- Tăng cường việc bảo quản, sửa
chữa nhà cửa và từng bước cải tạo và xây dựng thành thị theo hướng xã hội chủ
nghĩa.
I. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT, CHO THUÊ:
1. Nhà nước quốc hữu hoá toàn bộ
nhà cho thuê, không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít của tư sản mại bản, của
địa chủ, của tư sản gian thương lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị
và kinh tế của các tổ chức phản động.
2. Nhà nước trực tiếp quản lý
toàn bộ nhà cho thuê của các chủ là cá nhân, công ty, đoàn hội, tôn giáo v.v...
trừ trường hợp nhân dân lao động có ít diện tích cho nhau thuê để ở hoặc cho ở
nhờ.
Tuỳ theo chất lượng, công dụng của
từng ngôi nhà, tuỳ theo diện tích cho thuê nhiều hay ít, tuỳ theo thu nhập của
chủ nhà cao hay thấp, Nhà nước để cho những chủ nhà là cá nhân được hưởng một
phần tiền thuê nhà. Phần chủ nhà được hưởng sẽ do Bộ Xây dựng quy định cụ thể,
nhiều nhất không quá 25% tiền thuê nhà.
Riêng đối với những chủ nhà là
cá nhân có ít nhà cho thuê để ở, diện tích cho thuê dưới 150 m2 ở các tỉnh,
dưới 200 m2 ở thành phố Hồ Chí Minh, hoặc thu tiền cho thuê nhà (không kể tiền
đặt cọc) hàng năm dưới 600 đồng ở các tỉnh và 800 đồng ở thành phố Hồ Chí Minh
thì trước mắt chủ nhà vẫn được tạm thời cho thuê nhưng phải chấp hành đầy đủ
những quy định thống nhất về đăng ký, hợp đồng giá cho thuê, điều lệ bảo quản
sửa chữa, quyền lưu trú của người thuê.
3. Nhà nước trực tiếp quản lý tất
cả các biệt thự cho thuê (không kể diện tích nhiều hay ít) và toàn bộ diện tích
nhà cho thuê không phải để ở mà để làm cửa hàng, bệnh viện, trường học (không
kể diện tích cho thuê nhiều hay ít). Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các cư
xá công và tư, không kể là cư xá cho thuê hay ở không mất tiền. Đối với những
căn hộ mà người ở đã mua đứt và có giấy tờ hợp lệ thì coi như của riêng, nếu
không phải là đối tượng bị tịch thu trưng thu thì người đã mua nhà được Nhà nước
thừa nhận quyền sở hữu.
4. Đối với thần sĩ trí thức, gia
đình có công với cách mạng có nhà cho thuê thì vận động họ hiến. Công nhân,
viên chức Nhà nước và Đảng viên có nhà cho thuê hoặc đang quản lý nhà cho thuê
thì giao những nhà đó cho Nhà nước quản lý.
5. Những chủ có nhà cho thuê mà
không có chỗ ở được giữ lại một diện tích để ở tương đương với bình quân diện
tích chung ngoài xã hội hoặc có thể rộng hơn một ít tuỳ theo cấu trúc của ngôi
nhà.
6. Nhà nước trực tiếp quản lý
toàn bộ đất cho thuê không phân biệt diện tích nhiều hay ít và nói chung không
bồi hoàn, trừ trường hợp đặc biệt.
7. Người đang thuê đất được phép
sử dụng mà không được mua bán, chuyển dịch và phải tuân theo những quy định về
quản lý nhà đất ở đô thị.
II. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT VẮNG CHỦ
1. Tất cả những nhà, đất và tài
sản vắng chủ của người Việt nam và ngoại kiều đều do Nhà nước trực tiếp quản
lý. Khi người chủ về, Nhà nước sẽ giải quyết với họ. Không ai được chiếm dụng,
tự ý chuyển nhượng, mua bán nhà cửa, tài sản vắng chủ khi không được phép của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Nhà nước quản lý sử dụng những
nhà, đất và tài sản vắng chủ cho thuê theo chính sách cải tạo nhà cho thuê.
3. Nhà nước quản lý sử dụng những
nhà, đất và tài sản vắng chủ của những người đã ra nước ngoài làm ăn buôn bán,
hành nghề từ trước ngày giải phóng, khi họ trở về sẽ tuỳ từng trường hợp mà
nghiên cứu giải quyết sau.
Riêng đối với những người sau
đây, khi họ trở về, Nhà nước sẽ xét từng trường hợp cụ thể mà trả lại nhà cửa,
tài sản cho họ:
a. Những người làm ăn lương thiện
đi chữa bệnh, đi thăm viếng bà con, đi học ở nước ngoài.
b. Những người đi tham gia cách
mạng, tham gia kháng chiến.
c. Những người là nhân dân lao động
vì hoang mang sợ hãi bỏ chạy đi các nơi trước và trong những ngày giải phóng.
4. Những nhà, đất và tài sản mà
trước khi vắng, chủ nhà đã uỷ quyền hợp pháp cho những người là con đẻ, vợ hoặc
chồng hợp pháp của mình quản lý thì những người ấy được tiếp tục quản lý và
phải chấp hành những chính sách quản lý nhà, đất của Nhà nước; trường hợp chưa
kịp uỷ quyền hợp pháp thì Nhà nước cho phép những người là cha mẹ, con đẻ, vợ
hoặc chồng hợp pháp của họ trước đây đã ở trong những nhà ấy, nay được tiếp tục
ở nhưng không được bán, chuyển dịch bất động sản.
Đối với thân nhân không phải là
cha mẹ, vợ chống, con của các chủ vắng mặt mà trước đây cùng ở chung với chủ
nhà, nếu nay còn ở lại thì sẽ được thu xếp cho ở một chỗ trong nhà hoặc xếp ở
nơi khác.
5. Những trường hợp xin thừa kế,
xin hiến nhà, đất và tài sản vắng chủ sẽ được nghiên cứu giải quyết từng trường
hợp cụ thể theo chính sách.
6. Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh
thống nhất quản lý những nhà đất và tài sản vắng chủ tại địa phương.
Cơ quan quản lý nhà đất và cơ
quan tài chính chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, kiểm kê định giá, xử lý và
thanh toán với chủ nhà khi họ trở về theo đúng các chính sách chế độ và thống
nhất quản lý nhà đất và tài sản vắng chủ của Nhà nước.
III. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC ĐOÀN, HỘI TÔN GIÁO
Để bảo đảm thống nhất quản lý
nhà cửa, bảo đảm tôn trọng tự do tín ngưỡng và căn cứ vào các chế độ, chính
sách khác của Nhà nước, việc quản lý của các đoàn, hội tôn giáo ở các tỉnh phía
Nam được quy định như sau:
1. Nhà nước bảo hộ mọi nhà thờ,
chùa chiền, miếu mạc, thánh thất được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ
cúng hành đạo.
2. Nhà nước tịch thu toàn bộ nhà
đất của các Đoàn Hội các tổ chức không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt
động.
3. Nhà, đất của các đoàn, hội,
các tổ chức khác và của các tôn giáo hiện đang cho thuê được giải quyết theo
chính sách chung về nhà, đất cho thuê. Riêng đối với các nhà tập trung của các
tổ chức, các tôn giáo đã cho hội viên, giáo dân của mình nhờ, hoặc ở thuê với
giá rất rẻ mà không nằm trong phạm vi nơi thờ cúng, hành đạo thì Nhà nước có
thể xét cấp hẳn cho người đang sử dụng.
4. Những nhà cửa đất đai khác
còn bỏ trống hoặc dùng vào mục đích không phải thờ cúng, hành đạo, thì Nhà nước
vận động thuyết phục giáo dân giao cho Nhà nước dùng vào việc phục vụ lợi ích
chung.
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ
MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước
ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay
cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng,
nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất
đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
- Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu
tá trở lên.
- Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung
uý trở lên.
- Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của
nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó
trở lên.
- Các phần tử ác ôn, mật vụ,
tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
3. Những người có nhà cho thuê
và nhà thuộc diện Nhà nước trực tiếp quản lý, tuỳ theo chức vụ cấp bậc, quá
trình hoạt động dưới thời Mỹ nguỵ và thái độ chính trị hiện nay của đương sự mà
có thể chiếu cố dành cho một diện tích ở thích đáng, nếu chưa có chỗ ở.
V. ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT CỦA NGOẠI KIỀU
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không thừa nhận mọi cam kết của chính quyền Mỹ nguỵ với các nước
và các tổ chức quốc tế có cơ quan ở miền Nam Việt Nam.
Nhà nước không thừa nhận quyền sở
hữu về bất động sản đã có của các nước và của ngoại kiều trên lãnh thổ Việt Nam
từ trước ngày Giải phóng. Chính phủ sẽ giải quyết các vấn đề tồn tại về các loại
nhà, đất này theo hướng sau đây:
1. Quốc hữu hoá không bồi hoàn
toàn bộ đất đai, nhà cho thuê của chính phủ nước ngoài và ngoại kiều. Xét
trường hợp cụ thể có hình thức xử lý đích đáng; không bồi hoàn, bồi hoàn tượng
trưng, bồi hoàn một phần tuỳ theo quan hệ ngoại giao giữa nước ta với nước hữu
quan nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước hữu quan, và tuỳ theo tính chất
kinh doanh bóc lột của ngoại kiều nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của ngoại kiều.
2. Tịch thu toàn bộ tài sản:
a. Của nước trực tiếp tham gia
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
b. Của ngoại kiều trực tiếp phục
vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
c. Của nước ngoài đã được sử dụng
vào mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
3. Đối với nhà làm việc và nhà ở
của các Chính phủ nước ngoài khác và của các tổ chức quốc tế thì giải quyết như
sau:
Nếu là nhà mua hoặc tự xây cất hợp
pháp, căn cứ vào quy hoạch của đô thị mà có thể cho họ giữ lại một số nhà cần
thiết để làm cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan nghiệp vụ được Nhà nước ta chấp nhận.
Những nhà không dùng vào công việc trên thì phải nhượng lại.
Đối với những nhà không mua hoặc
xây cất không hợp pháp thì Nhà nước quản lý không bồi hoàn.
4. Nhà của ngoại kiều:
- Đối với những ngoại kiều được ở
lại nước ta làm ăn sinh sống, có nhà tự xây dựng hợp pháp thì được thừa nhận
quyền sử dụng để ở.
- Đối với ngoại kiều được phép
xuất cảnh:
Nếu là người lao động, thì Nhà
nước cho phép bán nhà mà họ đang ở hoặc tự xây cất hợp pháp.
Nếu có cha mẹ, vợ chồng hợp
pháp, con đẻ được ở lại và đã cùng ở chung một hộ thì có thể được xét cho nhận
uỷ quyền quản lý.
Đối với nhà của ngoại kiều không
phải là nhân dân lao động thì trước khi xuất cảnh đều phải giao lại cho Nhà nước
quản lý, và tuỳ từng trường hợp, Nhà nước sẽ không bồi hoàn, bồi hoàn tượng
trưng, hoặc bồi hoàn một phần.