Quyết định 05/2007/QĐ-UBND về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 do tỉnh Bạc Liêu ban hành
Số hiệu | 05/2007/QĐ-UBND |
Ngày ban hành | 04/06/2007 |
Ngày có hiệu lực | 14/06/2007 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Bạc Liêu |
Người ký | Phạm Hoàng Bê |
Lĩnh vực | Văn hóa - Xã hội |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 05/2007/QĐ-UBND |
Bạc Liêu, ngày 04 tháng 6 năm 2007 |
VỀ VIỆC BAN HÀNH KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 CỦA TỈNH BẠC LIÊU.
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng11 năm 2003;
Căn cứ Nghị Quyết số 01/2005/NQ-HĐND ngày 22 tháng 7 năm 2005 của HĐND tỉnh về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Căn cứ Nghị Quyết số 21/2006/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 02 năm 2006 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010;
Xét Tờ trình số 41/TTr-KHĐT ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Sở Kế hoạch và Đầu tư,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh Bạc Liêu.
Điều 2. Giám đốc, Thủ trưởng các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã căn cứ Kế hoạch này cụ thể hóa thành mục tiêu, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp hàng năm cho ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.
Điều 3. Giao Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh và các cơ quan có liên quan triển khai đến các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh, đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Kế hoạch này, định kỳ báo cáo UBND tỉnh.
Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký./.
|
TM. UBND TỈNH |
PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI NĂM NĂM 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo quyết định số 05/2007/QĐ-UBND ngày 04 tháng 6 năm
2007 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Bạc Liêu)
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2006 - 2010 đóng vai trò quan trọng cụ thể hóa nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết Ðại hội tỉnh Ðảng bộ lần thứ XIII, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 của tỉnh; góp phần thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Trên cơ sở đánh giá thật sâu sắc kết quả thực hiện kế hoạch năm năm 2001-2005, làm rõ những thành tựu đã đạt được, nhìn nhận thấu đáo những hạn chế và tồn tại, phân tích nguyên nhân tìm ra những bài học kinh nghiệm từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho thời kỳ tới sát với thực tiễn, mang tính khả thi cao, đưa tỉnh nhà tiến lên một bước mới ngang tầm với các tỉnh trong khu vực.
Trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 2001-2005, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2006 - 2010 với những nội dung chủ yếu như sau:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2001 - 2005
Năm năm qua, tình hình thế giới và trong nước tuy có những thuận lợi rất cơ bản, song đã phát sinh nhiều diễn biến rất phức tạp; chiến tranh và khủng bố; giá cả thị trường tăng cao, nhất là xăng dầu, thuốc chữa bệnh…; bệnh dịch SARS, cúm gia cầm phát triển mạnh; Hoa Kỳ kiện Việt Nam bán phá giá Tôm và cá Ba sa; thời tiết và môi trường biến động ngày càng xấu hơn. Song, được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Ðảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân trong tỉnh, chúng ta đã vượt qua khó khăn, trở ngại và giành được những thành tựu quan trọng, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu đã vượt, đạt, hoặc xấp xỉ đạt mức kế hoạch đề ra.
Thực hiện Nghị quyết của tỉnh Đảng bộ, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2001 - 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp, các đơn vị rà soát lại quy hoạch xây dựng, điều chỉnh bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005, quy hoạch sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp đến năm 2010, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực, đề ra các giải pháp phù hợp nhằm huy động cao nhất các nguồn lực để đầu tư phát triển theo hướng khai thác sử dụng hợp lý tiềm năng và lợi thế của tỉnh, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường, xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu ổn định cho chế biến phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trên cơ sở điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất, tiến hành chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tạo ra khu vực sản xuất hàng hóa ổn định như vùng sản xuất lúa chất lượng cao, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp..., coi đây là vùng động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển cho các năm tiếp theo. Ðồng thời tỉnh đã ban hành hàng loạt các chương trình lớn có ý nghĩa quan trọng triển khai thực hiện Nghị quyết XII của Ðảng bộ tỉnh góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ năm năm 2001 - 2005.
A. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất từ trước đến nay, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực: Tổng thu nhập nội tỉnh (GDP theo giá cố định 94) tăng từ 2.452 tỷ đồng năm 2000 lên 5.075 tỷ đồng năm 2005, tốc độ tăng bình quân đạt 15,7%/năm (Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ lần thứ XII đề ra là 18,5%/năm); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khu vực; ngư - nông - lâm nghiệp giảm từ 60,3% trong GDP năm 2000 xuống còn 57,6% năm 2005 (nghị quyết là 49%); công nghiệp và xây dựng tăng từ 17,8% trong GDP năm 2000 lên 22,1% năm 2005 (nghị quyết là 24,5%); dịch vụ 20,3% ( nghị quyết 26,5%).
2. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư đã đạt được những kết quả bước đầu khá tốt; đã chuyển gần 70.000 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản, giá trị tăng thêm trên 01 đơn vị đất sản xuất từ 7,5 triệu đồng năm 2000 lên 19 triệu đồng năm 2005. Lực lượng lao động có tay nghề được đào tạo bình quân hàng năm 17.252 người. Giảm lực lượng lao động trong nông nghiệp từ 203.492 người năm 2000 xuống còn 109.628 người năm 2005; tăng lực lượng lao động công nghiệp từ 20.953 người năm 2000 lên 23.960 người năm 2005; lực lượng lao động dịch vụ từ 39.897 người năm 2000 lên 53.903 người năm 2005. Vốn đầu tư cho sản xuất thủy sản và kết cấu hạ tầng nông thôn tăng nhanh làm động lực quan trọng khơi dậy tiềm năng góp phần thúc đẩy kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 05/2007/QĐ-UBND |
Bạc Liêu, ngày 04 tháng 6 năm 2007 |
VỀ VIỆC BAN HÀNH KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 CỦA TỈNH BẠC LIÊU.
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng11 năm 2003;
Căn cứ Nghị Quyết số 01/2005/NQ-HĐND ngày 22 tháng 7 năm 2005 của HĐND tỉnh về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Căn cứ Nghị Quyết số 21/2006/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 02 năm 2006 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010;
Xét Tờ trình số 41/TTr-KHĐT ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Sở Kế hoạch và Đầu tư,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh Bạc Liêu.
Điều 2. Giám đốc, Thủ trưởng các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã căn cứ Kế hoạch này cụ thể hóa thành mục tiêu, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp hàng năm cho ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.
Điều 3. Giao Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh và các cơ quan có liên quan triển khai đến các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh, đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Kế hoạch này, định kỳ báo cáo UBND tỉnh.
Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký./.
|
TM. UBND TỈNH |
PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI NĂM NĂM 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo quyết định số 05/2007/QĐ-UBND ngày 04 tháng 6 năm
2007 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Bạc Liêu)
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2006 - 2010 đóng vai trò quan trọng cụ thể hóa nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết Ðại hội tỉnh Ðảng bộ lần thứ XIII, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 của tỉnh; góp phần thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Trên cơ sở đánh giá thật sâu sắc kết quả thực hiện kế hoạch năm năm 2001-2005, làm rõ những thành tựu đã đạt được, nhìn nhận thấu đáo những hạn chế và tồn tại, phân tích nguyên nhân tìm ra những bài học kinh nghiệm từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho thời kỳ tới sát với thực tiễn, mang tính khả thi cao, đưa tỉnh nhà tiến lên một bước mới ngang tầm với các tỉnh trong khu vực.
Trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 2001-2005, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2006 - 2010 với những nội dung chủ yếu như sau:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2001 - 2005
Năm năm qua, tình hình thế giới và trong nước tuy có những thuận lợi rất cơ bản, song đã phát sinh nhiều diễn biến rất phức tạp; chiến tranh và khủng bố; giá cả thị trường tăng cao, nhất là xăng dầu, thuốc chữa bệnh…; bệnh dịch SARS, cúm gia cầm phát triển mạnh; Hoa Kỳ kiện Việt Nam bán phá giá Tôm và cá Ba sa; thời tiết và môi trường biến động ngày càng xấu hơn. Song, được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Ðảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân trong tỉnh, chúng ta đã vượt qua khó khăn, trở ngại và giành được những thành tựu quan trọng, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu đã vượt, đạt, hoặc xấp xỉ đạt mức kế hoạch đề ra.
Thực hiện Nghị quyết của tỉnh Đảng bộ, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2001 - 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp, các đơn vị rà soát lại quy hoạch xây dựng, điều chỉnh bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005, quy hoạch sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp đến năm 2010, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực, đề ra các giải pháp phù hợp nhằm huy động cao nhất các nguồn lực để đầu tư phát triển theo hướng khai thác sử dụng hợp lý tiềm năng và lợi thế của tỉnh, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường, xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu ổn định cho chế biến phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trên cơ sở điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất, tiến hành chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tạo ra khu vực sản xuất hàng hóa ổn định như vùng sản xuất lúa chất lượng cao, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp..., coi đây là vùng động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển cho các năm tiếp theo. Ðồng thời tỉnh đã ban hành hàng loạt các chương trình lớn có ý nghĩa quan trọng triển khai thực hiện Nghị quyết XII của Ðảng bộ tỉnh góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ năm năm 2001 - 2005.
A. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất từ trước đến nay, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực: Tổng thu nhập nội tỉnh (GDP theo giá cố định 94) tăng từ 2.452 tỷ đồng năm 2000 lên 5.075 tỷ đồng năm 2005, tốc độ tăng bình quân đạt 15,7%/năm (Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ lần thứ XII đề ra là 18,5%/năm); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khu vực; ngư - nông - lâm nghiệp giảm từ 60,3% trong GDP năm 2000 xuống còn 57,6% năm 2005 (nghị quyết là 49%); công nghiệp và xây dựng tăng từ 17,8% trong GDP năm 2000 lên 22,1% năm 2005 (nghị quyết là 24,5%); dịch vụ 20,3% ( nghị quyết 26,5%).
2. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư đã đạt được những kết quả bước đầu khá tốt; đã chuyển gần 70.000 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản, giá trị tăng thêm trên 01 đơn vị đất sản xuất từ 7,5 triệu đồng năm 2000 lên 19 triệu đồng năm 2005. Lực lượng lao động có tay nghề được đào tạo bình quân hàng năm 17.252 người. Giảm lực lượng lao động trong nông nghiệp từ 203.492 người năm 2000 xuống còn 109.628 người năm 2005; tăng lực lượng lao động công nghiệp từ 20.953 người năm 2000 lên 23.960 người năm 2005; lực lượng lao động dịch vụ từ 39.897 người năm 2000 lên 53.903 người năm 2005. Vốn đầu tư cho sản xuất thủy sản và kết cấu hạ tầng nông thôn tăng nhanh làm động lực quan trọng khơi dậy tiềm năng góp phần thúc đẩy kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
3. Sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp tiếp tục phát triển; từng bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành ngư - nông - lâm nghiệp đạt bình quân 16,1%/năm, gấp 4 lần chỉ tiêu nghị quyết; thủy sản tăng 35,4%, đạt 106% nghị quyết; giá trị tăng thêm của toàn ngành tăng bình quân 13,9%/năm.
Trong năm năm đã sản xuất 686 ngàn tấn thủy sản, gấp 2,3 lần thời kỳ 1996 - 2000, trong đó tôm 322 ngàn tấn, gấp 4,4 lần, sản lượng rau đậu 201 ngàn tấn, tăng gấp 2 lần, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất tiếp tục chuyển biến nhanh, chú trọng tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học vào sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao,… phát triển mạnh nhiều giống lúa chất lượng cao, giống gia súc, gia cầm, thủy sản có năng suất, phẩm chất tốt được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều, góp phần làm tăng đáng kể năng suất, giá trị sản phẩm. Lĩnh vực chăn nuôi phát triển đa dạng, chăn nuôi công nghiệp đã hình thành và đang có chiều hướng tăng về quy mô, nhất là nuôi các loại thủy sản.
Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, xuất hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh kết hợp đem lại hiệu quả kinh tế khá cao ( như lúa - cá, lúa - tôm, lúa - màu, tôm - cá, tôm - cua, muối - cá, rừng - tôm - cá,...); hoạt động dịch vụ phát triển rõ nét, nhất là tín dụng, mua bán, giao thông, bưu chính viễn thông... việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn bước đầu được quan tâm. Cơ sở hạ tầng nông thôn như cầu, đường giao thông, thủy lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, trạm y tế, chợ… được chú ý đầu tư xây dựng khá nhanh, người dân có điều kiện tiếp xúc với nhiều dịch vụ xã hội hơn. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
4. Sản xuất công nghiệp vẫn tăng trưởng khá; giá trị sản xuất từ 872 tỷ đồng năm 2000 lên 1.908 tỷ đồng năm 2005, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 16,9%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,95%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,5%. Chất lượng sản phẩm được cải thiện, số lượng, chủng loại sản phẩm tăng khá, bước đầu có uy tín trên thị trường trong nước và ngoài nước như thủy sản đông lạnh, thức ăn chăn nuôi, nước uống tinh khiết và một số sản phẩm cơ khí…
5. Lĩnh vực dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống của dân cư, nhất là hoạt động thương mại - du lịch, tiếp thị, quảng cáo, các dịch vụ phục vụ sản xuất thủy sản, giao thông, tín dụng, tư vấn đầu tư, bưu điện, bảo hiểm…
Ngoài những dịch vụ đã phát triển như trên đã hình thành thêm những thị trường dịch vụ mới như dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ việc làm, dịch vụ kỹ thuật, tin học... giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ đạt từ 840 tỷ đồng năm 2000 lên 1.994 tỷ đồng năm 2005, tăng bình quân 19%/năm, đạt 91,3% so với nghị quyết; tổng mức lưu chuyển hàng hóa tăng từ 2.225 tỷ đồng năm 2000 lên 4.950 tỷ đồng năm 2005, trong đó ngành du lịch có bước phát triển khá, nhiều dự án về du lịch đã được quan tâm đầu tư như khu du lịch Nhà Mát, cụm nhà Công Tử Bạc Liêu. Doanh thu du lịch năm năm tăng bình quân 17,35%/ năm, số du khách quốc tế đến địa bàn tăng bình quân 14%/năm, số ngày lưu trú 1,3 ngày đêm/lượt khách.
6. Tài chính, Tín dụng và đầu tư phát triển:
Thu ngân sách đạt khá cao tăng bình quân hàng năm 22,1%, tổng thu ngân sách trên địa bàn năm năm 2.251 tỷ đồng, tỷ lệ huy động vào ngân sách trên địa bàn bình quân đạt 8,35% GDP, đạt 100% so chỉ tiêu nghị quyết. Cơ cấu nguồn thu đã chuyển dịch theo hướng tích cực, thu ngoài quốc doanh đã trở thành nguồn thu chủ yếu; việc quản lý thu thuế theo các luật mới cơ bản đã ổn định, ý thức nộp thuế của người kinh doanh cũng được nâng lên khá rõ nét. Tổng chi ngân sách năm năm đạt 3.589 tỷ đồng, đáp ứng được yêu cầu tối thiểu cho đầu tư phát triển và hoạt động của các cơ quan Ðảng, Nhà nước và đoàn thể trong tỉnh;
Giai đoạn 2001 - 2005, đã mở thêm 5 ngân hàng mới, tổng vốn huy động của các ngân hàng 1.101 tỷ đồng, tăng 3,9 lần so giai đoạn 1997 - 2000, tổng dư nợ 3.617 tỷ đồng, tăng 4,3 lần giai đoạn 1997 - 2000, vốn đầu tư trung và dài hạn cũng tăng lên đáng kể từ 893 tỷ đồng năm 2000 lên 1.700 tỷ đồng năm 2005, đã góp phần đắc lực thúc đẩy sản xuất phát triển;
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội luôn được cải thiện, tỷ lệ huy động vốn trong GDP tăng từ 17,7% năm 2000 lên 31,3% năm 2005, tổng vốn đầu tư trong năm năm 8.639 tỷ đồng, chiếm 30,17% so với GDP (chỉ tiêu nghị quyết 24,5% GDP);
Cơ cấu vốn đầu tư được đổi mới theo hướng xóa dần cơ chế bao cấp, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách và có nguồn gốc từ ngân sách giảm so với những năm trước. Tính chung trong năm năm, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chiếm 30,8%; vốn tín dụng của Nhà nước chiếm 2,2%; vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 3,3%; đáng chú ý là vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và huy động khác chiếm đến 63,7%; Ðiểm nổi bật trong năm năm qua là nguồn vốn đầu tư khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, từ 185 tỷ đồng năm 2000 lên 1.355 tỷ đồng năm 2005, tăng 5,86 lần.
7. Hoạt động của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể:
Hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân và hộ kinh doanh có bước chuyển biến tích cực, năm năm đã phát triển thêm 559 doanh nghiệp, 9.445 hộ kinh doanh mới, với tổng vốn đăng ký 607 tỷ đồng, nộp thuế cho Nhà nước 693,2 tỷ đồng, tăng 4 lần so với giai đoạn 1997 - 2000, trong đó có 02 doanh nghiệp nước ngoài, tổng vốn đăng ký 13 triệu USD; 20 doanh nghiệp trong nước, tổng vốn đăng ký 901 tỷ đồng, tăng 05 lần về số lượng doanh nghiệp và 03 lần vốn đầu tư 27.648. Hộ kinh doanh cá thể, tổng vốn đăng ký 537,5 tỷ đồng, tăng 02 lần về số lượng hộ kinh doanh và 02 lần vốn đầu tư.
Quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, đến tháng 12/2005 đã cổ phần hóa xong 07 doanh nghiệp và 01 bộ phận của Công ty Du lịch, chuyển thành doanh nghiệp công ích 01 đơn vị, doanh nghiệp sự nghiệp có thu 01 đơn vị, khoán và cho thuê 01 doanh nghiệp, giải thể và cho phá sản 02 doanh nghiệp; lợi nhuận của các doanh nghiệp Nhà nước trong năm đạt 337 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 1.245 tỷ đồng. Số lượng HTX và tổ hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng cao trong số được thành lập. Trong tổng số 87 HTX có 51 HTX nông nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 58,6%, đến nay toàn tỉnh có 26% HTX hoạt động có hiệu quả, số HTX hòa vốn chiếm 39%, số làm ăn yếu kém, thua lỗ chiếm 35%, số HTX yếu kém chủ yếu thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
Giai đoạn 1996 - 2000 giá trị gia tăng của khu vực kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng không đáng kể so với GDP của tỉnh. Đến năm 2005, giá trị gia tăng của khu vực kinh tế tập thể đã đạt 37 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,5% trong GDP toàn tỉnh. Hàng năm nộp ngân sách trên 03 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho trên 10.000 lao động.
8. Hoạt động kinh tế đối ngoại giành được nhiều thành tựu quan trọng:
Xuất nhập khẩu: Tính chung năm năm, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu 547 triệu USD, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 2001 - 2005 tăng 13,5%, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 là 187 USD/người, mặt hàng chủ lực là thủy sản đông lạnh, chiếm 92,6%, còn lại là gạo và hàng nông sản khác;
Thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế, tỉnh đã chủ động xây dựng đề án hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thu hút đầu tư và nhiều văn bản pháp quy khác, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đối ngoại của tỉnh. Thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): 08 dự án với tổng vốn đầu tư 15,1 triệu USD, tương đương 234 tỷ đồng Việt Nam, trong đó có 1 dự án đã kết thúc đưa vào vận hành. Ðến cuối năm 2005 giải ngân trên 4,5 triệu USD, tương đương 70 tỷ đồng (bao gồm các dự án cấp thoát nước đô thị, nước sạch nông thôn của Chính phủ Úc và WB tài trợ, dự án bảo vệ những vùng đất ngập nước ven biển, dự án đường nông thôn, trang thiết bị y tế....); đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng đáng kể từ 13,0 triệu USD năm 2000 lên 34 triệu USD năm 2005 với 06 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản.
9. Ðẩy mạnh quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội:
Đã triển khai khá đồng bộ việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh, huyện và xã, quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực, quy hoạch sử dụng đất toàn tỉnh,... tạo được sự kết hợp và thống nhất giữa các ngành trên từng địa bàn, lãnh thổ. Nét nổi bật trong quy hoạch là tập trung chỉ đạo điều chỉnh kịp thời quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp (chủ yếu là chuyển đất sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp sang nuôi thủy sản) theo tinh thần Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Chính phủ, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tạo khí thế sôi nổi trong sản xuất, khơi dậy nguồn nội lực toàn xã hội, từ đó huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống (như: Thủy lợi, giao thông, điện, trường học, trạm y tế và nước sạch,…), nhất là các công trình trọng điểm, bức xúc;
Kết quả từ năm 2001 đến nay đã xây dựng hơn 4.583 km kênh mương thủy lợi, thủy nông nội đồng với khối lượng đào đắp trên 48 triệu m3, hoàn thành nhiều tuyến đường giao thông thủy bộ của tỉnh, huyện và xã với 1.270 Km đường nhựa và bê tông, trong đó có 154 km đường giao thông ở nội ô thị
xã và các thị trấn; 58 cây cầu bê tông cốt thép, trên 1.552 cây cầu kiên cố và bán kiên cố, đảm bảo thông xe 04 bánh đến 34/48 xã và xe 02 bánh cho gần 100% số ấp trong tỉnh, đạt 92% so với chỉ tiêu Ðại hội Ðảng bộ tỉnh lần thứ XII; phát triển mới hàng ngàn km đường dây tải điện, hoàn thành cơ bản điện khí hóa nông thôn giai đoạn II, nâng tỷ lệ hộ dùng điện từ 44% năm 2000 lên 90% năm 2005;
Hệ thống phòng học, bệnh viện, trạm y tế,... các cấp đều được đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả rõ rệt. Đến năm 2005 có 97% phòng học đạt tiêu chuẩn nhà cấp IV trở lên, trong đó có 42% phòng học được xây dựng kiên cố; hoàn thành cơ bản dự án xây dựng bệnh viện tỉnh, nâng cấp các trung tâm y tế huyện và 100% trạm y tế xã được xây dựng đạt chuẩn nhà cấp IV; mạng lưới thông tin liên lạc phát triển nhanh chóng, tổng số máy cố định trên mạng đạt 96.000 máy, bình quân 14 máy/10.000 dân, tăng gấp 4 lần so năm 2000;
Riêng đối với khu hành chính của tỉnh đã đầu tư 60,7 tỷ đồng, hoàn thành 20 trụ sở cơ quan, 40% đường giao thông, 50% hệ thống cấp thoát nước, 30% mạng lưới điện, 20% vỉa hè.
B. NHỮNG YẾU KÉM, TỒN TẠI
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, chuyển dịch chưa đồng bộ và tự phát còn lớn, chưa thực hiện đúng bước đi đã được xác định, chủ yếu là lĩnh vực thủy sản, dẫn tới vượt quá khả năng kiểm soát và đầu tư của Nhà nước, lực lượng cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, khả năng hoạt động của các cơ sở dịch vụ và công nghiệp chế biến còn hụt xa so với yêu cầu sản xuất;
- Lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết như: Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nội ngành còn chậm, các phương thức canh tác tiên tiến mang lại hiệu quả cao chưa được áp dụng kịp thời; năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi còn thấp, nhất là so với các nước trong khu vực; hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống trong nông nghiệp nông thôn vẫn còn yếu kém như hệ thống thủy lợi, thủy nông nội đồng, vùng ngọt hóa mới đáp ứng 80%, vùng Nam Quốc lộ 1A đáp ứng 50 - 60% yêu cầu sản xuất; mạng lưới dịch vụ, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển chậm.
Tuy giá trị sản xuất thủy sản tăng nhanh, nhưng phần lớn là do mở rộng diện tích nuôi tôm mang lại, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất chưa đồng bộ và ổn định, chi phí sản xuất còn cao, một số sản phẩm nông, thủy sản đầu ra gặp khó khăn. Nghề khai thác hải sản chưa có chuyển biến đáng kể, lượng tàu thuyền giảm sút, hoạt động kém hiệu quả;
- Ngành công nghiệp phát triển chưa tương xứng so với tiềm năng và yêu cầu đặt ra, công nghiệp chế biến chỉ tiêu thụ khoảng 30% tôm nguyên liệu; 70% sản lượng lúa, chất lượng sản phẩm chậm được nâng lên, chi phí sản xuất còn cao, sức cạnh tranh của hàng hóa còn kém, các sản phẩm khác như cá, trái cây,… chưa có nhà máy chế biến; sản xuất thức ăn chăn nuôi, muối Iot quy mô công suất nhỏ; lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa vững chắc, chưa tạo được những sản phẩm có giá trị cao và đang có nguy cơ giảm sút, nghề thủ công truyền thống chưa được khôi phục; khu công nghiệp Trà Kha, Láng Trâm chậm được khởi công xây dựng, do đó chưa tạo được mặt bằng thu hút đầu tư phát triển công nghiệp;
- Lĩnh vực dịch vụ tuy tăng trưởng khá nhanh, nhưng còn rất nhiều hạn chế so với điều kiện hiện có và nhu cầu phát triển đòi hỏi; ngoài những dịch vụ như tín dụng, bảo hiểm, thương mại du lịch, tư vấn đầu tư, y tế, giáo dục đã được củng cố và tăng cường; các dịch vụ khác như tư vấn pháp lý, việc làm, tiếp thị, công nghệ thông tin, khoa học công nghệ,… vẫn còn ở bước sơ khai hoặc chưa được hình thành, do đó nhiều yêu cầu của xã hội đặt ra nhưng chưa được đáp ứng;
- Hoạt động xúc tiến thương mại hiệu quả còn thấp; cơ sở vật chất cho dịch vụ, du lịch chậm được đầu tư, nâng cấp, nhất là các khu du lịch, trung tâm thương mại, chợ,... chất lượng phục vụ và văn minh trong giao dịch với khách hàng còn nhiều hạn chế;
- Thu ngân sách trên địa bàn không đủ chi, nguồn thu phát triển chưa vững chắc. Tuy hàng năm Trung ương hỗ trợ thêm cho ngân sách địa phương 30 - 35%/tổng chi ngân sách, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, nhất là chi cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh, trong khi đó chi ngân sách Nhà nước để đầu tư vẫn còn bao cấp, nhất là trong khu vực Nhà nước, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, ít nhiều có lãng phí, thất thoát, còn nhiều công trình, dự án chưa phát huy tốt hiệu quả do việc kéo dài thời gian triển khai thi công;
- Hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn còn yếu kém nhiều mặt, chất lượng tín dụng chưa cao, tuy có nhiều biện pháp khắc phục nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn còn lớn; nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng chưa được khai thác đúng mức;
+ Hoạt động đầu tư toàn xã hội tuy đã sôi động hẳn và có bước phát triển đáng kể nhưng chất lượng, hiệu quả đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ thành công trong đầu tư sản xuất kinh doanh còn thấp, đầu tư lãng phí, không đúng quy hoạch còn diễn ra ở nơi này, nơi khác;
+ Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế thế giới chưa được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, xúc tiến đầu tư và thương mại còn quá ít, hiệu quả chưa cao, các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước phần lớn chưa quan tâm, chưa hiểu biết về hội nhập kinh tế quốc tế, các sản phẩm đa số chưa đăng ký bản quyền sở hữu, một số mặt hàng nông thủy sản chưa có đầu ra tốt; thị trường tiêu thụ sản phẩm của một số doanh nghiệp trong tỉnh đã bị hàng hóa nước ngoài lấn ép, một số doanh nghiệp đã phải giải thể hoặc phá sản. Hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều khó khăn, sản phẩm xuất khẩu thô, giá trị gia tăng thấp, còn chiếm tỷ trọng cao, mặt hàng xuất khẩu chưa phong phú, chủ yếu hàng thủy sản đông lạnh; hàng nông sản, thủy sản khác còn ít, tỷ lệ xuất khẩu qua trung gian và bán nội địa còn lớn; công tác dự báo giá cả, thông tin tìm kiếm thị trường còn nhiều hạn chế và yếu kém, các thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu còn quá ít;
+ Việc thu hút vốn đầu tư, công nghệ của nước ngoài còn nhiều hạn chế, chưa tạo được môi trường hấp dẫn đầu tư, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, trình độ dân trí còn thấp, lực lượng lao động trong độ tuổi phần lớn chưa được đào tạo nghề, trình độ năng lực cán bộ quản lý chưa ngang tầm với nhiệm vụ, đây là một thách thức lớn đang đặt ra đối với tỉnh ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực;
+ Công tác xây dựng và quản lý thực hiện quy hoạch còn nhiều tồn tại, thiếu sót: Lập, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch chưa kịp thời, chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa làm tốt công tác dự báo, triển khai xây dựng quy hoạch thiếu đồng
bộ và chậm trễ,… gây trở ngại công tác đầu tư phát triển và lãng phí cho nền kinh tế; cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo các ngành và địa phương chưa nhận thức tốt tầm quan trọng của công tác quy hoạch, thiếu quan tâm chỉ đạo xây dựng quy hoạch, thậm chí có nơi khoán trắng cho đơn vị tư vấn;
+ Việc quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa được các cấp, các ngành có liên quan quan tâm và coi trọng, nhiều trường hợp vi phạm không được phát hiện, thậm chí đã phát hiện nhưng không xử lý, trách nhiệm quản lý quy hoạch chưa được phân công phân cấp rõ ràng, trình tự xây dựng, triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch chưa được thực hiện nghiêm túc, nhất là việc công khai hóa, lấy ý kiến đóng góp của nhân dân;
+ Ðầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng công cộng, nhất là các công trình sử dụng vốn ngân sách triển khai thực hiện chậm, chất lượng lập dự án và thi công một số công trình còn kém, phong trào huy động nguồn vốn trong dân để đầu tư ở một số địa phương vẫn còn hạn chế, tâm lý ỷ lại sự đầu tư của Nhà nước trong dân đang có chiều hướng gia tăng làm hạn chế nguồn lực đầu tư phát triển. Công tác vận động vốn hỗ trợ chính thức của các ngân hàng thế giới (ODA) và vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO) chưa tốt, kết quả thu hút vốn còn thấp, việc quản lý và giải ngân vốn còn nhiều yếu kém, phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tài trợ, nhiều công trình chưa có mặt bằng thi công do chưa giải phóng được mặt bằng, vốn đối ứng bố trí thiếu kịp thời.
A. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
Hoạt động văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ và đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống tinh thần của nhân dân chuyển biến tích cực, nổi bật là công tác xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo, phổ cập trung học cơ sở; phát triển mạng lưới y tế cơ sở, thực hiện chương trình quốc gia về kế hoạch hóa gia đình, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em và phòng chống các bệnh dịch nguy hiểm; xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, phát triển các loại hình văn hóa truyền thống theo mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa nghệ thuật, báo chí - xuất bản, phát thanh - truyền hình; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; quyên góp xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương…
1. Giáo dục đào tạo:
Qua năm năm thực hiện (2001 - 2005) lĩnh vực giáo dục đào tạo có những chuyển biến tích cực, giáo dục mầm non được quan tâm hơn, 100% xã có trường mẫu giáo, tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt trên 97%, trình độ, tay nghề giáo viên từng bước được bồi dưỡng, đào tạo nâng cao, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn chiếm 88%, cơ sở vật chất mạng lưới trường lớp, dụng cụ phục vụ dạy và học được đầu tư tăng cường hàng năm theo hướng chuẩn quốc gia, đến cuối năm 2005 số phòng học đạt tiêu chuẩn nhà cấp III chiếm 40,36%, tăng bình quân 5 - 6%/năm. Công tác phổ cập giáo dục chống mù chữ đạt kết quả khả quan, đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở 53/61 xã - phường và thị trấn chiếm 87%. Ðặc biệt hệ thống các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và giới thiệu việc làm, một số trường đào tạo trên địa bàn tỉnh được đầu tư khá hoàn chỉnh, từ đào tạo công nhân đến cao đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đào tạo chuyên sâu và đào tạo tay nghề trong tỉnh.
2. Về khoa học, công nghệ và môi trường:
Lĩnh vực khoa học và công nghệ có chuyển biến tích cực, đã tập trung vào những định hướng nghiên cứu ứng dụng phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất, khai thác tiềm năng lợi thế của tỉnh, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Từ năm 2001 đến nay đã đầu tư nghiên cứu 78 đề tài khoa học và công nghệ, trong đó có 56 đề tài nghiên cứu khoa học, 22 dự án sản xuất thử nghiệm, 18 đề tài ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ, cụ thể qua một số mặt sau: Đầu tư các hệ thống xét nghiệm bệnh tôm, xây dựng đài quan trắc, ứng dụng công nghệ sinh học vào trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, gia súc, gia cầm, nhất là việc đưa 10 giống lúa mới chất lượng cao; giống lúa chịu mặn phèn trồng trên đất lúa tôm, triển khai ứng dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác lúa 3 giảm 3 tăng, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), ứng dụng công nghệ sau thu hoạch như máy cắt lúa cải tiến, lò sấy, máy sấy lúa di động... đã góp phần tăng thu nhập, tăng hiệu quả kinh tế đáng kể cho nền kinh tế;
Trong khai thác nước ngầm, đã cải tiến kỹ thuật khoan, sử dụng chất phụ gia chống sụp thành ống, cải tiến ống lược để tăng lưu lượng nước khai thác, ứng dụng công nghệ sản xuất muối trắng; áp dụng nhiều mô hình sản xuất tổng hợp cho hiệu quả cao, làm tăng lợi nhuận từ 10 - 20 triệu đồng/ha như mô hình tôm - lúa, lúa - cá, lúa - màu, mô hình VAC, VACB, RVACB...;
Ðến cuối năm 2005 có trên 95% diện tích lúa, 40% diện tích rau đậu thực phẩm, 20% diện tích cây ăn trái, 80% đàn heo, được đưa vào sản xuất bằng giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, 100% khâu suốt lúa, 150.000 ha lúa cày dở bằng cơ giới; tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 17,87% năm 2001 lên 26,4% năm 2005. Ðáng chú ý nhất là ngành chăn nuôi đã xuất hiện nhiều trang trại nuôi công nghiệp với sản lượng lớn và hiệu quả khả quan. Công tác điều tra cơ bản trong năm năm qua đã thu được nhiều kết quả nhất định, phục vụ có hiệu quả cho nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Công tác bảo vệ tài nguyên môi trường được chú trọng, đã triển khai hệ thống tiêu chuẩn môi trường và bước đầu kiểm tra việc thực hiện bảo vệ tài nguyên, môi trường theo hệ thống tiêu chuẩn đề ra. Xây dựng xong chiến lược bảo vệ môi trường của tỉnh đến năm 2020; 70% rác thải đô thị được thu gom, 100% rác thải độc hại ở các bệnh viện đã được xử lý; đa số các cơ sở sản xuất có quy mô lớn đã được đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Công tác tuyên truyền bảo vệ tài nguyên môi trường thường xuyên được quan tâm, tạo chuyển biến bước đầu về nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.
3. Y tế:
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện, chất lượng khám chữa bệnh tốt hơn, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư đáp ứng kịp thời, bệnh viện tỉnh quy mô 500 giường đã hoàn thành đưa vào sử dụng, các trung tâm y tế huyện, thị đã và đang thực hiện nâng cấp, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, có 94% trạm y tế xã phường được xây dựng cơ bản, 495 tổ y tế khóm, ấp; 100% trạm y tế có Bác sĩ; người nghèo và trẻ em được khám và chữa bệnh miễn phí. Quản lý, triển khai thực hiện tốt chương trình y tế quốc gia, đã thanh toán bệnh bại liệt, bệnh phong, tỷ lệ trẻ em mắc và chết 6 bệnh có vacxin phòng ngừa giảm rõ rệt;
Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản kế hoạch hóa gia đình và trẻ em đạt kết quả khá, đảm bảo giảm tỷ lệ sinh bình quân 0,03% năm. Sức khỏe trẻ em liên tục được cải thiện, tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 29,8% năm 2000 xuống còn 22,36% năm 2005.
4. Về việc làm và xóa đói giảm nghèo:
Thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đạt nhiều kết quả thiết thực, đã tập trung lồng ghép nhiều nguồn vốn và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động; đã đưa 717 người đi làm việc ở nước ngoài, tạo tiền đề tốt cho công tác xuất khẩu lao động của tỉnh trong những năm tới. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực, lao động trong ngành công nghiệp từ 6,2% năm 2000 tăng lên 7,5% năm 2005, dịch vụ du lịch từ 15,3% năm 2000 lên 20% năm 2005, ngành nông - lâm - ngư - diêm nghiệp từ 73,5% giảm xuống còn 72,5% năm 2005, trong đó ngành nông - lâm - diêm nghiệp 60,9% năm 2000 xuống còn 28% năm 2005, ngành thủy sản tăng từ 12,7% năm 2000 lên 48% năm 2005;
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 21,12% vào năm 2005, trong đó đào tạo cơ bản 12%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 75,6% năm 2000 lên 85% năm 2005, số người thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ 6,1% năm 2000 xuống còn 4,5% năm 2005;
Thông qua việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội và các nguồn lực khác, tỉnh đã đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, nhất là vùng nông thôn, tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tạo điều kiện về vốn, khuyến nông, khuyến ngư hướng dẫn cách làm ăn, khám chữa bệnh không thu tiền, hỗ trợ nhà tình thương, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác... đã góp phần giảm hộ nghèo đáng kể, bình quân giảm 5.340 hộ/năm, đưa tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2005 xuống còn 4% theo tiêu chí cũ.
5. Lĩnh vực văn hóa thông tin, thể dục thể thao: Đã có những hoạt động sôi nổi thiết thực, thúc đẩy các hoạt động kinh tế và ổn định đời sống xã hội, đã tạo được các phong trào quần chúng sâu rộng, đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng nếp sống văn minh trật tự, kỷ cương trong xã hội. Các hoạt động văn hóa thông tin, phát thanh truyền hình đã quan tâm hướng vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khmer, 100% xã có trạm truyền thanh; tỷ lệ người nghe đài, xem truyền hình tăng từ 66% năm 2000 lên 90% năm 2005; đề cao gương người tốt việc tốt, lao động giỏi trong các lĩnh vực. Các di sản văn hóa phi vật thể từng bước được khôi phục và phát huy, các di tích lịch sử như Tháp cổ Vĩnh Hưng, Đồng Nọc Nạng, Đền thờ Bác, khu di tích Cách mạng Cả Chanh..., được bảo tồn và tôn tạo.
Hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh rộng khắp trên phạm vi toàn tỉnh, nhất là phong trào "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại", có 9,5% dân số tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên năm 2000, tăng lên 13,5% năm 2005; 47,5% số trường học thực hiện chương trình giáo dục thể chất năm 2000 tăng lên 90% năm 2005. Chú trọng đầu tư đào tạo lực lượng huấn luyện viên, trọng tài, tổ chức huấn luyện lực lượng vận động viên trẻ ở một số bộ môn thành tích cao.
6. Các hoạt động xã hội, chăm sóc người có công được quan tâm chỉ đạo, đã thực hiện nâng mức trợ cấp hưu trí và mức lương tối thiểu để ổn định đời sống của người nghỉ hưu và đối tượng người có công. Phát động thực hiện tốt phong trào “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn” sâu rộng trong xã hội; công tác cứu trợ được các ngành các cấp quan tâm, đã huy động 104 tỷ đồng xây dựng và sửa chữa 2.325 căn nhà tình nghĩa, 19.297 nhà tình thương trao tặng cho các gia đình thương binh liệt sĩ và hộ nghèo khó khăn về nhà ở, đặc biệt đối với đồng bào Khmer, tính đến cuối năm 2005 tỉnh đã xây dựng xong đề án hỗ trợ đất ở nhà ở và đất sản xuất theo Nghị định 134 của Chính phủ.
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội đã được đẩy mạnh. Phong trào xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội ngày càng được nhân rộng, nhiều địa phương có những giải pháp tốt trong phòng chống các tệ nạn xã hội. Ngành lao động thương binh xã hội kết hợp với cộng đồng tổ chức cai nghiện cho các đối tượng có hiệu quả, tỷ lệ tái nghiện giảm.
B. NHỮNG YẾU KÉM, TỒN TẠI
- Lĩnh vực văn hóa - xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết hiệu quả; chất lượng giáo dục - y tế còn thấp; công tác báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình có mặt chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đòi hỏi của nhân dân; cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa chất lượng chưa cao, nhiều đơn vị, gia đình được công nhận đạt chuẩn văn hóa chưa đúng thực chất; thiết chế văn hóa xã, các công trình phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí cho nhân dân xây dựng chậm; đời sống một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo có chiều hướng phát triển; các giá trị văn hóa và đạo đức xã hội có mặt suy giảm; các thành tựu về xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc;
- Tình hình an ninh, trật tự có lúc, có nơi diễn biến phức tạp; công tác phòng ngừa, nhất là phòng ngừa xã hội còn sơ hở, thiếu chủ động. Ý thức cảnh giác của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chưa cao. Một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đoàn thể chưa quan tâm đúng mức nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Một số loại tội phạm hình sự như trộm cắp, gây rối, chống người thi hành công vụ, hiếp dâm trẻ em, hoạt động băng nhóm theo kiểu xã hội đen, các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc, nhất là số đề… có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp, làm cho xã hội quan tâm, lo lắng;
- Công tác quốc phòng được tăng cường nhưng chất lượng, hiệu quả chưa tương xứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc có mặt chưa đạt yêu cầu đề ra; chất lượng các lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên có mặt còn hạn chế; khả năng sẵn sàng chiến đấu ở cơ sở còn yếu.
1. Đánh giá tổng quát:
Năm năm qua, tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, song nhờ sự chỉ đạo điều hành nhanh nhạy, kịp thời của Ðảng bộ, HÐND, UBND tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu rất cao của các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh, kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao, tuy chưa đạt mức đề ra của Ðại hội Ðảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhưng là tỉnh có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khu vực Ðồng bằng Sông Cửu Long. Chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở phát huy những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh. Kinh tế đối ngoại được mở rộng, cùng cả nước chủ động hội nhập nhanh vào kinh tế khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tiếp tục được tăng cường. Các mặt xã hội chuyển biến nhanh; đời sống dân cư được cải thiện. Tình hình chính trị và an toàn xã hội được bảo đảm;
Bên cạnh thành tựu là cơ bản, vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại, trước hết là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, song chưa bền vững, chất lượng và hiệu quả chưa cao, quy mô, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Mặt khác cơ sở hạ tầng còn thấp kém trong lúc phải khắc phục hàng loạt những khó khăn trong sản xuất thủy sản, môi trường, vốn đầu tư; trình độ sản xuất lạc hậu so với yêu cầu hội nhập quốc tế. Ðời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn, nhiều vấn đề xã hội bức xúc kéo dài, tệ nạn xã hội và tội phạm còn diễn biến phức tạp.
2. Bài học kinh nghiệm:
Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và chưa được nêu trên về phát triển kinh tế cũng như quản lý các hoạt động kinh tế trên địa bàn có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho giai đoạn phát triển tới như sau:
a) Từ các nghị quyết của Ðảng, cần nhanh chóng cụ thể hóa thành các chương trình hành động và triển khai một cách đồng bộ, nhất quán;
b) Quản lý tốt các hoạt động kinh tế trên cơ sở những cơ chế, những loại thị trường đang được hình thành và hoàn thiện, từ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo hướng bền vững, hiệu quả và ổn định;
c) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần được đặt trong hệ thống các quan hệ liên ngành, liên vùng trong phạm vi vùng và cả nước nói chung trên cơ sở khai thác những lợi thế tĩnh và động của tỉnh nhằm sử dụng hiệu quả những cơ hội phát triển, những dự án quy mô vùng và cả nước;
d) Kết hợp hài hòa giữa phát huy tối đa nội lực với sử dụng hiệu quả ngoại lực để mở rộng sản xuất và và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HÐH và chủ động hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực;
đ) Từng bước kết hợp tốt hơn giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo; chủ động kết hợp, tranh thủ vận dụng những tiến bộ trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương với những chỉ đạo cụ thể, sát với thực tế của lãnh đạo địa phương.
KHUNG ÐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM NĂM, GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC:
1. Về bối cảnh quốc tế: Mặc dù xu hướng chung của thế giới ngày nay vẫn là hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển nhưng dự kiến tình hình chính trị thế giới và khu vực trong năm năm 2006 - 2010 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; những khó khăn lớn có thể vẫn còn kéo dài. Các thế lực phản động quốc tế tiếp tục tìm cách chống phá hòng gây mất ổn định chính trị - xã hội nước ta;
Dự báo xu hướng chung là kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục hồi và phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu và của các đối tác chính của ta trong năm năm 2006 - 2010 sẽ tăng nhẹ so với năm năm 2001 - 2005. Thị trường quốc tế sẽ sôi động hơn; các nguồn vốn đầu tư ODA, FDI và gián tiếp sẽ được phục hồi dần, nhưng sự cạnh tranh trên các thị trường này cũng sẽ gay gắt hơn. Những tiến triển cục diện thế giới trên sẽ tạo ra nhiều cơ hội tốt để có thể tận dụng, nhưng cũng rất nhiều thử thách phải đương đầu. Do vậy, bối cảnh quốc tế trên cũng đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động tránh được những khó khăn gây ra từ quá trình tái phân công lao động quốc tế và cơ cấu lại nền kinh tế thế giới.
2. Về bối cảnh trong nước: Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế nước ta đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế và khu vực;
Nước ta được thế giới đánh giá có sự ổn định cao về chính trị - xã hội; đây là nền tảng vững chắc và là nhân tố thuận lợi lớn nhất cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đó cũng là thế mạnh cần khai thác của nước ta hiện nay. Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Những cơ chế chính sách ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực.
Tuy nhiên, khó khăn và thách thức cũng rất lớn. Quy mô sản xuất nhỏ bé; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với yêu cầu. Thời tiết khí hậu thay đổi bất thường, các loại bệnh dịch như: SARS, dịch cúm gia cầm vẫn có khả năng xảy ra, gây tác động bất lợi tới phát triển kinh tế.
Là một tỉnh của Ðồng bằng Sông Cửu Long, Bạc Liêu hội đủ những ưu thế đặc trưng của vùng. Nhờ phát huy những ưu thế đó, năm năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn duy trì ở mức cao, bình quân 15%/năm. GDP bình quân đầu người đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước (610/584 USD). Tuy nhiên, sau năm năm phát huy những yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, để tiếp tục phát triển nhiều vấn đề đang đặt ra cần phải tìm kiếm những giải pháp khả thi để xử lý. Những vấn đề đó là: Mặc dù đã định hình khá đồng bộ, song hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn còn nhiều yếu kém, đặc biệt là mạng lưới đường bộ, hệ thống thủy lợi chung và phục vụ nuôi trồng thủy sản, mạng lưới điện, cấp thoát nước đô thị. Cơ cấu kinh tế của tỉnh các năm qua chuyển dịch chủ yếu theo hướng khai thác những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (đất đai, thổ nhưỡng, vị trí địa lý kinh tế…) Cả 2 thời kỳ phát triển 1996 - 2000 và 2001 - 2005 đều có một đặc trưng chung, đó là tháo gỡ hạn chế để những lợi thế phát huy tác dụng. Mặc dù có sự chỉ đạo tập trung. Song quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất thời gian qua, phần nào vẫn mang tính tự phát. Trong 5 - 10 năm tới sự phát triển theo chiều rộng hầu như đã tới giới hạn. Vấn đề đặt ra là phải có những giải pháp phát triển theo chiều sâu. Trước hết cần phân định rõ ranh giới các tiểu vùng kinh tế một cách rõ ràng hơn, từ đó áp dụng những mô hình sản xuất, canh tác theo chiều sâu phù hợp với đặc thù của từng tiểu vùng. Nhu cầu vốn, sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung sắp tới cũng sẽ vượt ra khỏi phạm vi của một hộ hay đơn vị sản xuất nhỏ. Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, mọi sản phẩm cần được quảng bá thương hiệu, tìm kiếm thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh trên phạm vi cả nước và toàn cầu. Ðể tiếp tục phát triển cần thiết phải mở rộng hơn nữa các quan hệ sản xuất hiện có, thông qua các hình thức như thành lập tổ sản xuất, hợp tác xã, cao hơn là tham gia các hiệp hội, một mặt tự bảo vệ mình nhưng mặt khác cũng là cách để hợp tác mở rộng thị trường, cùng nhau giải quyết những vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật v.v... về văn hóa - xã hội, tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết, đặc biệt là cần nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, đủ để cạnh tranh trên thị trường lao động trong nước và quốc tế, song điều quan trọng đây là nguồn lực phát triển có thể đưa kinh tế của tỉnh phát triển nhanh nhất, đi tắt, đón đầu, bắt kịp trình độ khoa học công nghệ tiên tiến trong nước và khu vực.
II. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
1. Mục tiêu 2006 - 2010:
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 05 năm 2006 - 2010 được xác định như sau: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của từng sản phẩm sản xuất trên địa bàn; phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nghiên cứu, triển khai các thành tựu về khoa học công nghệ, tạo thành lực lượng sản xuất trực tiếp góp phần cho tăng trưởng kinh tế. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả các quan hệ kinh tế đối ngoại. Phát triển văn hoá, tiếp tục thực hiện xóa đói giảm nghèo, tạo thêm nhiều việc làm, giảm tệ nạn xã hội. Phát triển và hoàn thiện từng bước kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, cùng cả nước bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia
2. Các nhiệm vụ chủ yếu:
- Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm thời kỳ 2006 - 2010 là 12%. Ðồng thời, đảm bảo duy trì mức tăng trưởng ổn định cho thời kỳ đến năm 2020 là 9 - 10%. Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển, huy động mọi nguồn lực đầu tư cho chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. Tạo bước tiến bộ rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, khai thác đúng mức lợi thế so sánh của địa phương, nâng cao vai trò khoa học công nghệ, đóng góp vào phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế;
- Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước; củng cố và nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước, đồng thời phát triển mạnh, không hạn chế quy mô các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, từng bước cùng cả nước hình thành đồng bộ các loại thị trường, nhất là thị trường vốn, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ, xuất khẩu và dịch vụ...;
- Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Ðảng và Nhà nước, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại, làm tốt công tác đối ngoại, tạo môi trường đầu tư thông thoáng nhằm thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm kinh doanh, quản lý từ bên ngoài;
- Huy động các nguồn vốn đầu tư, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước hình thành các ngành công nghiệp mới, công nghệ cao tạo đà cho những bước phát triển sau này. Hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, hình thành các khu vực đô thị mới, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và khu vực. Chú trọng đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào Khmer, vùng ven biển còn nhiều khó khăn;
- Tăng cường và nuôi dưỡng các nguồn thu ngân sách, đảm bảo các cân đối lớn trên địa bàn, khai thác các nguồn vốn trong tỉnh và từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh;
- Đổi mới công tác giáo dục, đào tạo, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đặc biệt đối với khu vực nông thôn; bồi dưỡng cán bộ chuyên môn, quản lý giỏi, trình độ cao, công nhân kỹ thuật lành nghề theo sát yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng cường công tác quản lý tài nguyên và môi trường;
- Tiếp tục giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là các loại tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông. Nâng cao mức sống dân cư cả về tinh thần và vật chất, thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, chăm lo tạo điều kiện phát triển thanh niên cả thể lực và trí lực; giảm tỷ lệ thất nghiệp nói chung và thiếu việc làm ở nông thôn, giảm số hộ đói nghèo theo chuẩn mới; phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp các đối tượng yếu thế và người nghèo; tiếp tục phát huy những thành tựu về y tế, phát triển các loại hình văn hóa, thể dục thể thao và tạo điều kiện thực hiện mạnh mẽ xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa - xã hội;
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy lùi các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân. Ðẩy mạnh phong trào toàn dân sống và làm việc theo pháp luật, tăng cường kỷ cương, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân;
- Đảm bảo tốt công tác quốc phòng, an ninh, kết hợp chặc chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ quốc phòng, an ninh tạo thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, góp phần tăng cường tiềm năng quốc phòng của cả nước.
3. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2006 - 2010:
- Về kinh tế:
+ Tốc độ tăng GDP 12 %, trong đó khu vực nông nghiệp tăng 4 - 6%, công nghiệp và xây dựng 18 - 21 %, dịch vụ 17 - 20%;
+ Cơ cấu GDP: Khu vực nông nghiệp khoảng 39,5%, trong đó thủy sản 29,4%, công nghiệp và xây dựng khoảng 33% (trong đó công nghiệp 19,6%), dịch vụ khoảng 27,5%;
+ GDP năm 2010 đạt khoảng 1 tỷ USD theo giá hiện hành, bình quân GDP đầu người 1.100 USD;
+ Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách 6,4 % (tương đương 1.000 tỷ đồng);
+ Giá trị xuất khẩu tăng từ 151 triệu USD năm 2005 lên 360 triệu USD năm 2010, tăng bình quân 19% năm, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng từ 114,2 triệu USD năm 2005 lên 330 triệu USD năm 2010, bình quân tăng 23,6% năm.
+ Vốn đầu tư toàn xã hội 32 - 33% GDP.
- Về xã hội:
+ Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; sinh viên cao đẳng và đại học đạt 100 - 110/1 vạn dân. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2010 đạt 25% tổng lao động xã hội (trình độ tay nghề từ sơ cấp và tương đương trở lên);
+ Tỷ lệ phòng học và phòng chức năng đạt tiêu chuẩn nhà cấp III là 50-55%/năm (dự kiến đến năm 2010 có 7.320 phòng học và phòng chức năng);
+ 100% hộ dân có nhà ở, trong đó nhà kiên cố tăng bình quân 2% năm, tỷ lệ người sử dụng điện thoại đạt 22% dân số; tăng nhanh tỷ lệ số người sử dụng Internet, mở rộng sử dụng tin học vào các lĩnh vực;
+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,16%;
+ Hàng năm tạo việc làm cho 12.000 lao động; dạy nghề cho 22.000 người. Năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 60%;
+ Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 8 - 10% (theo tiêu chí mới);
+ Tỷ lệ tử vong trẻ em từ 1 đến 5 tuổi 1%, tử vong bà mẹ liên quan thai sản 5/100.000. Tỷ lệ Bác sỹ 5,5/10.000 dân, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 20%;
+ Tỷ lệ dân được dùng nước sạch hợp vệ sinh 95%, trong đó: Khu vực nông thôn 90% (100% hộ dân dùng giếng nước ngầm).
- Về môi trường:
+ Thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đã nêu trong chương trình Nghị sự XXI của Việt Nam;
+ Từng bước sử dụng công nghệ sạch trong các ngành kinh tế - xã hội. Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên đất và nước (khoáng sản) lập lại cân bằng sinh thái, phục hồi các khu vực hệ sinh thái bị suy thoái, bị phá hủy, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cơ bản, nhất là khu vực Nam Quốc lộ IA (vùng ven biển);
+ Đảm bảo diện tích rừng phòng hộ ven biển, tăng cường trồng cây phân tán trong hộ dân bình quân 8 - 10 triệu cây/năm, tăng diện tích cây xanh ở các khu đô thị, tăng độ che phủ cây xanh từ 9,8 % năm 2005 lên 15% năm 2010.
+ Các thị xã, thị trấn, bệnh viện, khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp chế biến phải được xử lý nước thải, chất thải đảm bảo vệ sinh, thu gom chất thải rắn, xử lý cơ bản các sự cố môi trường trên các kênh rạch.
III. ÐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH, LĨNH VỰC GIAI ÐOẠN 2006 - 2010
A. VỀ KINH TẾ
1. Về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn:
Tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch hình thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ, thương mại. Ðẩy mạnh ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nâng cao hàm lượng khoa học, công nghệ trong các sản phẩm hàng hóa, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nông, ngư, diêm nghiệp.
a) Về thủy sản:
Tập trung chỉ đạo, đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa các loại thủy sản, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, bảo đảm phát triển bền vững và hiệu quả; triển khai thực hiện có hiệu quả dự án khai
thác đất bãi bồi ven biển kết hợp với bảo vệ rừng phòng hộ và nguồn lợi thủy sản. Ðầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ, các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất. Khuyến khích phát triển mạnh đánh bắt thủy sản xa bờ, từng bước giảm dần các phương tiện đánh bắt ven bờ, đồng thời phát triển dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác biển.
b) Nông nghiệp:
Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ða dạng các loại ngành nghề ở nông thôn; nhân rộng các mô hình sản xuất, các sản phẩm có lợi thế (thủy sản, lúa chất lượng cao và muối thực phẩm), có thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế cao; quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ; tập trung phát triển nền nông nghiệp hàng hóa; đẩy mạnh chương trình nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào quá trình sản xuất, nhằm tăng nhanh chất lượng, khối lượng và giá trị sản phẩm hàng hóa, vừa phục vụ trực tiếp cho thị trường nội địa, vừa có thể xuất khẩu, nâng cao mức sống dân cư.
2. Về phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:
- Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu và các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp kinh tế nông thôn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp với nhiều quy mô, nhiều trình độ, chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp;
- Cải tạo, nâng cấp mạng lưới điện, nhất là ở thị xã, các thị trấn, thị tứ hoàn thành điện khí hóa nông thôn, có chính sách trợ giúp hộ nghèo và gia đình chính sách vay vốn mắc điện kế, tăng tỷ lệ hộ dùng điện lên 98% vào năm 2008;
- Dự kiến nhu cầu điện thương phẩm năm 2010 là 340 triệu kw/h với nhịp độ tăng tương ứng là 13,5%/năm, đáp ứng đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt;
- Ðẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Trước mắt là bổ sung hoàn chỉnh điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Ðẩy nhanh tiến độ khâu chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án khu công nghiệp Trà Kha và cụm công nghiệp của một số huyện thị để đáp ứng nhu cầu đầu tư và có mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong nội ô thị xã. Ðầu tư đổi mới công nghệ chế biến nông, thủy sản, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, nghiên cứu khôi phục, phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, cơ khí, dệt… tạo thương hiệu tin cậy cho tỉnh. Hạn chế tối đa việc nhập thiết bị công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường vào tỉnh; có chiến lược đào tạo tay nghề đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp;
- Trọng tâm phát triển trong năm năm 2006 - 2010 là tiếp tục phát triển hơn nữa các ngành công nghiệp chế biến nông, thủy sản, nâng cao tỷ lệ chế biến tại địa bàn. Ðối với thủy sản nguồn nguyên liệu lớn cho công nghiệp địa phương cần nhanh chóng nâng tỷ lệ chế biến từ khoảng 40 - 50% hiện nay lên khoảng 70 - 80% vào năm 2010; đẩy mạnh các ngành công nghiệp bổ trợ trước và sau thu hoạch, nuôi trồng và khai thác thủy sản, sửa chữa và sản xuất nông ngư cụ, sản xuất nước đá,… phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật dụng gia đình, đồ dùng học sinh, nghiên cứu đầu tư xây dựng một số nhà máy công nghiệp nhẹ, lắp ráp hàng điện tử. Dự kiến tốc độ tăng trưởng công nghiệp 20,3%/năm.
3. Về tài chính tín dụng:
- Thực hiện tốt các luật thuế, tập trung khai thác, quản lý các nguồn thu phát sinh trên địa bàn; thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời vào ngân sách Nhà nước đồng thời có chính sách bồi dưỡng các nguồn thu hợp lý và chống thất thu có hiệu quả; thực hiện công khai, dân chủ trong công tác thu thuế, bảo đảm công bằng đối với người nộp thuế;
- Bố trí chi ngân sách theo hướng ưu tiên cho đầu tư cơ sở hạ tầng, nhằm thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế cho phát triển sản xuất, kinh doanh; thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép các nguồn vốn để thực hiện các nhiệm vụ chi phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội, đặc biệt là tăng chi cho giáo dục, đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, xóa đói, giảm nghèo. Ðẩy mạnh chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện khoán định mức chi hành chính cho các đơn vị; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng ngân sách theo dự toán;
- Có cơ chế phối hợp nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Gắn hoạt động ngân hàng, tín dụng với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
4. Về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật:
- Tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi; cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch để tạo điều kiện thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chú trọng phát triển hạ tầng đô thị, các thị trấn và trung tâm cụm xã; đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu hành chính các huyện Hồng Dân, Ðông Hải, Vĩnh Lợi và các công trình phục vụ nâng thị xã Bạc Liêu lên thành phố vào năm 2008. Đầu tư hoàn chỉnh các dự án hạ tầng xã hội và cơ sở phúc lợi công cộng đã được phê duyệt; tích cực triển khai đề án xã hội hóa trên các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, TDTT, để huy động có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội;
- Dự báo cân đối các nguồn vốn đầu tư phát triển: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm năm 2006 - 2010 khoảng 18.861 tỷ đồng tương đương 1.190 triệu USD, tăng bình quân 16,4%/năm, chiếm 31,39% GDP. Trong đó, đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách 8.613 tỷ đồng, chiếm 45% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội (trong đó ngân sách địa phương 5.829 tỷ, vốn đầu tư của Bộ, Ngành Trung ương và trái phiếu Chính phủ ước 2.210 tỷ, vốn ODA 277 tỷ đồng); vốn đầu tư từ nguồn tín dụng của Nhà nước 315 tỷ đồng, chiếm 2,65%; vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước 246 tỷ đồng, chiếm 1,3%; vốn đầu tư của khu vực dân cư 8.210 tỷ đồng, chiếm 43,47%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1.476 tỷ đồng, chiếm 7,83% tổng vốn đầu tư.
5. Về phát triển thương mại và dịch vụ:
- Khuyến khích phát triển mạnh thương mại, dịch vụ phục vụ sản xuất và nhu cầu đa dạng của nhân dân, nhất là khu vực nông thôn. Tăng cường công tác quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý thị trường, chống buôn lậu, kinh doanh trái phép. Ðẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm thị trường tiêu thụ hàng hóa địa phương. Huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các chợ đầu mối, chợ cụm xã, các chợ thủy sản, nông sản. Ðầu tư xây dựng trung tâm thương mại ở các thị trấn trong tỉnh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Phấn đấu đến năm 2010, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trên địa bàn đạt khoảng 11.000 tỷ đồng;
- Ðẩy mạnh phát triển dịch vụ ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, xuất nhập khẩu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư. Tiếp tục phát triển mạnh hệ thống bưu chính viễn thông, nhất là ở các xã ven biển và nông thôn; mở rộng khả năng hòa mạng viễn thông tăng cường phủ sóng với chi phí hợp lý, phát triển dịch vụ Internet; tăng cường phát triển hệ thống điện phục vụ sản xuất; hỗ trợ phát triển một số ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề nông thôn của địa phương. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ giai đoạn 2006 - 2010 tăng 17 - 20%/năm và chiếm tỷ trọng trong nền kinh tế khoảng 27,5%;
- Phát triển mạnh du lịch trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, xã hội nhất là khu vực ven biển và các di tích lịch sử văn hóa của tỉnh. Ðẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng các khu du lịch theo quy hoạch, có chính sách thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch...
6. Về các thành phần kinh tế:
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo kế hoạch. Ðiều chỉnh hợp lý cơ cấu và quy mô các doanh nghiêp Nhà nước trên địa bàn theo hướng đảm nhận các dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội;
Phát triển kinh tế tập thể theo hướng đa dạng hóa hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, nhất là vùng nông thôn.
7. Về kinh tế đối ngoại:
Thực hiện tốt chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Ðảng và Nhà nước. Tích cực khắc phục những vướng mắc, ảnh hưởng đến việc thu hút và thực hiện nguồn vốn ODA và FDI trên địa bàn. Khuyến khích mạnh mẽ các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong tỉnh với các đối tác nước ngoài, nhất là hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, tìm kiếm thị trường (chú ý khai thác thị trường Trung Quốc và Campuchia); nghiên cứu các sản phẩm mới mà tỉnh có điều kiện sản xuất.
8. Về tài nguyên - môi trường:
- Tăng cuờng hoạt động quản lý tài nguyên và môi trường; điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp nhằm tổ chức khai thác hợp lý tài nguyên theo đặc thù từng tiểu vùng phía Bắc và Nam Quốc lộ IA;
- Nhanh chóng bù đắp lại phần diện tích rừng đã điều chỉnh sang nuôi trồng thủy sản, ổn định diện tích rừng theo quy hoạch, bảo vệ tốt rừng phòng hộ và trồng cây phân tán trong nhân dân. Chú ý việc quy hoạch và lựa chọn kỹ các loại cây thích hợp trồng ở nội ô thị xã Bạc Liêu và trung tâm các huyện vừa bảo đảm mỹ quan, vừa có giá trị về môi trường ...;
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Đẩy mạnh quy hoạch, quản lý việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngầm một cách hợp lý; xử lý tốt nguồn nước mặt đáp ứng quá trình sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường trong sạch và lành mạnh;
- Ðến năm 2007, 100% cơ sở sản xuất phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và xử lý chất thải theo quy định; áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn; cơ bản hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước ở các đô thị, các khu công nghiệp và khu dân cư tập trung. Quy hoạch và triển khai xây dựng các nghĩa trang, lò thiêu phù hợp với nhu cầu, tập tục của nhân dân và yêu cầu bảo vệ môi trường.
B. VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ:
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; phòng chống mọi biểu hiện tiêu cực trong giáo dục, đẩy mạnh xã hội hóa, xây dựng xã hội học tập. Củng cố thành quả phổ cập giáo dục chống mù chữ, mở rộng hệ thống giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, thực hiện phổ cập trung học phổ thông những nơi có điều kiện; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục cộng đồng, hiện đại hóa cơ sở vật chất trường, lớp;
- Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, củng cố hoạt động các trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh và các huyện, thị, hình thành hệ thống trung tâm giáo dục cộng đồng ở các xã, phường, thị trấn. Nâng cấp các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, ổn định và nâng cao hoạt động Trường Ðại học Bạc Liêu; khuyến khích phát triển các trường dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu học tập và đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển;
- Gắn các hoạt động khoa học và công nghệ với các hoạt động kinh tế xã hội để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội;
- Các cấp, các ngành có trách nhiệm làm cho giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu trong cuộc sống theo quan điểm của Ðảng.
2. Văn hóa, nghệ thuật, thông tin, báo chí, thể dục thể thao:
- Tăng cường đầu tư, phát triển toàn diện các hoạt động văn hóa, văn nghệ làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; chỉ đạo thí điểm xây dựng xã, phường, thị trấn văn hóa ở các huyện, thị xã; thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ; đẩy mạnh xây dựng các công trình phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa và hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Tiếp tục đầu tư xây dựng, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh (nhất là các công trình đã có chủ trương của Tỉnh ủy và các di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh);
- Hiện đại hóa cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng các sản phẩm báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình, hệ thống truyền thanh các huyện, thị và cơ sở; thực hiện chế độ họp báo định kỳ với các cơ quan báo chí; xây dựng quy chế cung cấp thông tin, bảo đảm cho người dân được cung cấp tương đối đầy đủ thông tin về các hoạt động kinh tế chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh;
- Ðẩy mạnh phong trào luyện tập thể dục trong các tầng lớp nhân dân. Phát triển phong trào thể thao quần chúng, hoạt động thể dục, thể thao trong các trường học, cơ quan Nhà nước; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thể thao. Đầu tư cơ sở vật chất và công tác huấn luyện để phát triển một số môn thể thao thành tích cao;
- Quy hoạch hệ thống cơ sở TDTT, thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên toàn xã hội tham gia hoạt động và phát triển sự nghiệp TDTT, tạo ra phong trào tập luyện TDTT lành mạnh, phát triển quy mô và chất lượng các hoạt động TDTT góp phần cải thiện tình trạng sức khỏe, nâng cao thể lực, thể trạng người Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2010 có 18% dân số luyện tập TDTT thường xuyên, 10% số hộ gia đình tham gia phong trào rèn luyện sức khỏe, đầu tư hoàn chỉnh cơ sở vật chất ngành TDTT như sân vận động, nhà thi đấu, bể bơi ở tỉnh, các xã, thị trấn có sân bóng đá, bóng chuyền.
3. Dân số - gia đình và việc làm:
- Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp (nông, lâm, ngư) từ 74% năm 2005, xuống còn 60% năm 2010, tăng lao động công nghiệp xây dựng lên 15 - 17%, lao động dịch vụ thương mại tăng 23 - 25%. Ðẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, từng bước tiến tới xuất khẩu lao động có tay nghề, trình độ cao;
- Thực hiện có hiệu quả chương trình dân số quốc gia trên địa bàn; phấn đấu thực hiện tốt chỉ tiêu phát triển dân số đã đề ra; thực hiện nghiêm chủ trương cán bộ, công chức không sinh con thứ 3; tăng cường củng cố mạng lưới cộng tác viên chương trình dân số tuyến cơ sở;
- Quan tâm giải quyết việc làm; tăng nhanh số người được giải quyết việc làm thông qua phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhất là lao động ở khu vực nông thôn; khuyến khích phát triển thêm các cơ sở dạy nghề kể cả các cơ sở dân lập và tư thục, tăng nhanh số lượng và chất lượng lao động qua đào tạo, vừa phục vụ xuất khẩu lao động, vừa giúp người lao động tìm việc làm trong và ngoài tỉnh;
- Hình thành mạng lưới dịch vụ xã hội về thông tin giáo dục, tư vấn chăm sóc gia đình và trẻ em, mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực dân số, gia đình, trẻ em và chăm sóc người già, người neo đơn, phục hồi chức năng cho người tàn tật, nhất là trẻ em. Tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp xúc với pháp luật, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội, tạo môi trường xã hội lành mạnh, xây dựng gia đình bền vững.
4. Về nhà ở:
- Bằng nhiều biện pháp tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhân dân khắc phục khó khăn về nhà ở, nhất là các đối tượng chính sách, hộ dân tộc Khmer, những người không có khả năng tự lực về nhà ở. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình kiên cố hóa nhà ở nông thôn;
- Bảo đảm nhu cầu về nhà ở, đất ở cho cán bộ, công chức trong diện điều chuyển do tách tỉnh và những người đang gặp khó khăn về nhà ở;
- Thực hiện đúng các chủ trương, chính sách, đồng thời công khai, minh bạch việc bồi thường, giải tỏa và tái định cư cho nhân dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các dự án khu dân cư trong tỉnh.
5. Về công tác xóa đói, giảm nghèo và chăm sóc các đối tượng chính sách:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong việc thực hiện các chính sách đối với người có công thông qua phong trào đền ơn đáp nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” nhằm huy động thêm nguồn lực để thực hiện mục tiêu nâng cao mức sống các đối tượng có công;
- Phát triển mạng lưới an sinh xã hội, thực hiện một số chính sách trợ giúp của Nhà nước đối với các nhóm người yếu thế có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người dễ bị tổn thương, tạo cơ hội cho họ tự tạo việc làm có thu nhập đủ nuôi sống bản thân tham gia vào các hoạt động cộng đồng, các hoạt động xã hội được hưởng lợi từ cải cách kinh tế. Mở rộng chế độ bảo hiểm áp dụng cho mọi đối tượng, đa dạng hóa mạng lưới an sinh tự nguyện, tiến hành thử nghiệm các hình thức bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cho nông dân, phát triển hình thức bảo hiểm hộ gia đình để thay cho bảo hiểm sức khỏe học đường;
- Dựa vào cộng đồng phát triển công tác bảo trợ xã hội, khuyến khích các hoạt động nhân đạo, mở rộng sự tham gia và nâng cao vai trò các tổ chức xã hội. Củng cố các quỹ của xã hội và đoàn thể trợ giúp thường xuyên cho người nghèo, người không có sức lao động, không nơi nương tựa, tiếp tục thực hiện chế độ bảo hiểm y tế và hình thành các loại hình bảo hiểm cho người nghèo;
- Nâng cao chất lượng công tác xóa đói, giảm nghèo; tiếp tục tạo điều kiện để hộ nghèo, người nghèo tự lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực, tập trung đầu tư cho các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao; hỗ trợ phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, nâng cao vai trò của các tổ chức từ thiện, nhân đạo trong việc giúp đỡ người nghèo và hộ nghèo. Xây dựng các cơ sở nuôi dưỡng người tàn tật, cơ nhỡ,… không nơi nương tựa. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 20,38% năm 2005 xuống còn 8 - 10% năm 2010;
- Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với nước, giải quyết dứt điểm những trường hợp tồn đọng trong diện chính sách. Làm tốt công tác quy tập mộ liệt sĩ; đầu tư sửa chữa, nâng cấp và mở rộng các nghĩa trang liệt sĩ đang bị xuống cấp.
6. Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; đề cao đạo đức của người thầy thuốc; tăng cường các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, người nghèo, các đối tượng chính sách, nhân dân vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc. Ðẩy mạnh xã hội hóa y tế, phát triển nhiều loại hình dịch vụ y tế để người dân được chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao. Thực hiện tốt Luật chăm sóc trẻ em, bảo đảm tất cả trẻ em dưới 6 tuổi đều được khám và điều trị bệnh miễn phí.
7. Về đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phát động toàn xã hội tích cực tham gia phòng chống tệ nạn xã hội; gắn cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” với việc xây dựng gia đình, ấp, khóm, khu dân cư không có tệ nạn xã hội, đến cuối nhiệm kỳ phấn đấu có từ 65 - 70% khóm, ấp an toàn không có tội phạm và tệ nạn xã hội. Bảo đảm các cơ sở giáo dục của tỉnh đủ điều kiện tập trung hết các đối tượng mại dâm, ma túy vào chữa bệnh, dạy nghề, giúp các đối tượng này sớm hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
8. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và bảo vệ quyền lợi của trẻ em:
- Tổ chức thực hiện tốt chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh thần, nâng cao và phát huy khả năng vai trò của phụ nữ, đảm bảo cho người phụ nữ có điều kiện thực hiện nhiệm vụ và tham gia đầy đủ, bình đẳng trong mọi hoạt động kinh tế xã hội;
- Phổ biến rộng rãi chủ trương chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới, nâng cao vai trò, vị trí và sự tham gia của người phụ nữ vào việc ra quyết định và lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp và mọi lĩnh vực, đặc biệt quan tâm hỗ trợ bình đẳng giới đồng bào dân tộc, phụ nữ đơn thân; lồng ghép yếu tố giới vào các chính sách, chương trình hành động, các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các ngành các cấp; thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ, tạo nguồn cán bộ kế cận, đề bạt cán bộ nữ… Tăng cường khả năng tiếp cận của phụ nữ đối với các nguồn vốn tín dụng, vốn từ các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện để phụ nữ được tập huấn về quản lý và sử dụng các nguồn vốn trên có hiệu quả;
- Thực hiện nhiều giải pháp nhằm hạn chế phân biệt đối xử với phụ nữ, ngược đãi trong gia đình, bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Tôn trọng và bảo đảm cho trẻ em thực hiện các quyền và bổn phận trước gia đình và xã hội. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tạo điều kiện nâng cao vai trò, bổn phận của gia đình trong việc nuôi dạy con cái, củng cố vai trò, năng lực các cơ quan chức năng hoạt động vì quyền lợi trẻ em, thực hiện các giải pháp hỗ trợ đảm bảo trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc Khmer, trẻ em trong vùng khó khăn, trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ em khuyết tật được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản, được học tập, chăm sóc, tham gia vào các hoạt động văn hóa - xã hội, có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng bị lạm dụng, xâm hại, bóc lột, lao động nặng nhọc.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
1. Ðổi mới và tăng cường đúng mức công tác huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển theo hướng khai thác tối đa nguồn vốn trong tỉnh, trong nước và nước ngoài bằng các hoạt động cụ thể, thiết thực.
- Ðối với nguồn vốn của Nhà nước (kể cả vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước), phải tập trung chỉ đạo và kiểm soát thu chi chặt chẽ, kiên quyết thực hiện triệt để tiết kiệm và ra sức chống chi tiêu lãng phí, nhất là đối với chi hoạt động thường xuyên, chi cho xây dựng cơ bản, tiến hành nghiêm túc việc rà soát, bố trí lại các danh mục đầu tư để điều chỉnh bổ sung thật hợp lý bảo đảm phát huy tối đa hiệu quả vốn đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi về môi trường sản xuất kinh doanh để huy động thật tốt nguồn vốn từ ngân hàng, đồng thời khai thác đúng mức quỹ đất và nhà đất ở thị xã, thị trấn để tạo thêm nguồn vốn đầu tư, giao Trung tâm phát triển quỹ đất khẩn trương triển khai thực hiện nhiệm vụ này.
- Ðối với nguồn vốn của dân cư và các doanh nghiệp, một mặt có cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư thỏa đáng, thúc đẩy mạnh mẽ chương trình xã hội hóa đầu tư trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tăng thêm nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng để kích thích huy động vốn trong xã hội; mặt khác tăng cường đúng mức việc tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển để mọi người tự giác hăng hái thực hành tiết kiệm, tăng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh và xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Ðối với nguồn vốn bên ngoài (ngoài tỉnh, ngoài nước): Dành một khoản ngân sách Nhà nước bằng 0,1% doanh số xuất khẩu của tỉnh để chi cho hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại, tăng cường đúng mức các hoạt động kêu gọi, thu hút đầu tư đối với các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong nước và nước ngoài. Khẩn trương xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thật nghiêm túc quy chế giải quyết các yêu cầu, vướng mắc của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư theo hướng một đầu mối, thông thoáng, rõ ràng và nhanh nhất trên cơ sở giao quyền đúng mức cho Trung tâm xúc tiến đầu tư của tỉnh, Ban quản lý dự án các khu công nghiệp và UBND các huyện, thị xã.
- Ði đôi với xây dựng môi trường đầu tư thật lành mạnh, hấp dẫn, trước hết khẩn trương xây dựng hoàn thành hạ tầng khu công nghiệp của tỉnh và quy hoạch xong một vài cụm công nghiệp của huyện, thị xã đang có điều kiện trong khi chưa có khu, cụm công nghiệp cho phép các nhà đầu tư xây dựng xí nghiệp sản xuất ngoài khu công nghiệp, nhưng phải bảo đảm môi trường và an ninh quốc phòng. Việc làm này chỉ ưu tiên cho các nhà đầu tư chế biến xuất khẩu thủy sản. Ðồng thời có chủ trương và tiến hành tuyên truyền vận động nhân dân và toàn xã hội thực hiện thói quen tôn vinh và tôn trọng thật sự các nhà đầu tư.
2. Khẩn trương đổi mới nội dung, phương thức và chuyển dịch cơ cấu đào tạo dạy nghề cho người lao động sát với yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh, vừa bảo đảm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội trước mắt 2006 - 2010, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài theo nhiều hình thức đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong tỉnh, trong nước và nước ngoài.
- Ðối với việc đào tạo dạy nghề trong tỉnh, cần tập trung đầu tư cả cơ sở vật chất và lực lượng giáo viên có chất lượng tốt cho các trường trung cấp, các trung tâm dạy nghề, đổi mới nội dung chương trình giảng dạy theo hướng tăng cường đúng mức thời lượng thực hành, hiện tại cần ưu tiên đào tạo cán bộ trung cấp nuôi trồng thủy sản, quản lý doanh nghiệp, kế toán tài chính và kết hợp với các trường đại học đào tạo ngắn hạn cán bộ Makerting cho các doanh nghiệp; dạy các nghề thiết thực cho xuất khẩu lao động và phát triển công nghiệp ở địa phương như may mặc, kiểm định chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu v.v…
- Ðối với đào tạo lao động phục vụ dài hạn cần phải đẩy mạnh công tác lựa chọn học sinh phổ thông học giỏi, có năng khiếu phù hợp với yêu cầu phát triển của tỉnh, đưa đi đào tạo ở các trường đại học có chất lượng cao trong nước và ngoài nước, nhanh chóng ổn định và nâng cao hoạt động Trường Đại học Bạc Liêu để đào tạo lực lượng lao động phục vụ cho giai đoạn tiếp theo.
- Tăng thêm kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo dạy nghề và thu hút nhân tài về tỉnh, đối với những người có trình độ và bằng cấp từ Thạc sỹ trở lên, có thời hạn làm việc thực tiễn từ hai đến ba năm mà tự nguyện về tỉnh công tác sẽ được hưởng các chế độ ưu đãi hợp lý; đi đôi với khẩn trương rà soát và lựa chọn lực lượng lao động đã đào tạo ở các cấp các ngành để bố trí lại đúng ngành nghề, phát huy tốt năng lực.
3. Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động khoa học công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh, đời sống và khôi phục, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Đẩy mạnh công tác tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống sát với yêu cầu thực tiễn, tập trung là khoa học công nghệ về sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, chế biến hàng nông thủy sản, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, công nghệ sinh học về giống, về phân bón. Tăng thêm kinh phí thỏa đáng cho hoạt động này, trong đó cần có hình thức “đặt hàng” đề tài khoa học, mua bản quyền công nghệ nếu xét thấy cần thiết và hiệu quả.
- Tích cực hướng dẫn các thành phần kinh tế nhân rộng nhanh chóng các mô hình sản xuất theo quy trình công nghệ mới đạt hiệu quả cao như mô hình ba tăng ba giảm, mô hình sản xuất đa canh, xen canh trong nông nghiệp, mô hình cải tiến quản lý công nghiệp hạ giá thành sản phẩm hiện có. Ðồng thời tổ chức thực hiện tập trung hơn các mô hình sản xuất thực nghiệm trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản nhưng phải rút ra được quy trình sản xuất tốt để phổ biến.
4. Về tài nguyên môi trường: Trước hết phải bảo vệ cho được các diện tích rừng hiện có, phát triển thêm cây xanh trên các vùng, nhất là vùng nuôi tôm và các khu đô thị; bảo vệ, cải tạo, khôi phục tài nguyên môi trường nước kể cả tài nguyên biển, đất, nước, khoáng sản… xử lý thật tốt các chất thải công nghiệp, sinh hoạt và y tế, kiểm soát tốt nguồn nước mặn cho nuôi trồng thủy sản, không để xâm nhập mặn vào các vùng ngọt hóa. Ðể thực hiện những giải pháp này phải làm tốt những công việc cụ thể sau:
- Phải kiểm soát chặt chẽ các quy hoạch, các dự án đầu tư theo hướng xử lý tốt các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường;
- Tăng cường hơn nữa công tác bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ ven biển, tăng mức đầu tư và nâng chất mô hình giao đất, giao rừng cho dân quản lý, hàng năm tổ chức một đợt có quy mô hợp lý về trồng cây phân tán trong nhân dân; thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về khai thác bảo vệ tài nguyên khoáng sản, trước hết là bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nguồn nước ngầm, kiên quyết ngăn chặn có hiệu quả tình trạng khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên ảnh hưởng xấu đến môi trường;
- Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương để xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quan trắc môi trường của tỉnh, xây dựng xong các bãi rác ở các thị trấn, thị xã tiến hành thu gom rác thải trên địa bàn toàn tỉnh, đầu tư xây dựng nhà máy chế biến xử lý bãi rác ở thị xã Bạc Liêu, lò đốt rác thải ở bệnh viện tỉnh và các trung tâm y tế huyện;
- Tăng cường tuyên truyền cho nhân dân về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sinh thái trong sản xuất và đời sống để mọi người tự giác thu gom rác thải, bảo vệ nguồn nước, đồng thời hướng dẫn cụ thể cho nhân dân về các quy trình sản xuất sạch, các biện pháp giữ gìn môi trường trong sản xuất và sinh hoạt, trước hết là giữ gìn nguồn nước mặt và nước ngầm.
5. Lành mạnh hóa cân đối thu chi ngân sách: Cơ cấu lại thu chi ngân sách theo hướng tăng các nguồn thu trên địa bàn, tăng chi cho đầu tư phát triển, tăng dần tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, ổn định các khoản chi cho hoạt động sự nghiệp và quản lý tài chính công.
6. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: Hỗ trợ các doanh nghiệp tìm hiểu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, khai thác những cơ hội, vượt qua những thách thức do hội nhập mang lại. Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA, tạo môi trường thông thoáng, thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp.
7. Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cải cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức và trách nhiệm của đội ngũ công chức, đổi mới phương thức điều tiết kinh tế trên cơ sở xác định rõ vai trò của các cơ quan Nhà nước.
8. Tăng cường công tác quốc phòng an ninh: Kết hợp quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế - xã hội: Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh. Củng cố hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang trong tỉnh, khả năng chủ động ứng phó của các lực lượng công an trong mọi tình huống. Bảo đảm tốt hơn các nhu cầu của lực lượng vũ trang trên địa bàn về các mặt đời sống, bảo đảm kỹ thuật, vũ khí thiết bị./.
|
TM. UBND TỈNH |
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN |