Quy chế tòa án quốc tế

Số hiệu Khongso
Ngày ban hành 26/06/1945
Ngày có hiệu lực
Loại văn bản Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành ***
Người ký ***
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

QUY CHẾ TÒA ÁN QUỐC TẾ

STATUTE OF THE INTERNATIONAL COURT OF JUSTICE

 

Điều 1. Tòa án quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp quốc là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc, được tổ chức và hoạt động theo đúng các nghị quyết dưới đây của bản quy chế này.

Chương 1.

TỔ CHỨC TÒA ÁN

Điều 2. Tòa án có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn, không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định vụ xét  xử cao nhất, hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.

Điều 3.

1. Tòa án được cấu tạo gồm 15 người, trong đó không thể có 2 công dân của cùng một quốc gia.

2. Người có thể được xem xét để đưa vào thành phần của Tòa án, như công dân của một quốc gia, được coi là công dân của chính quốc gia đó, mà ở quốc gia ấy công dân này thường xuyên sử dụng các quyền công dân và các quyền chính trị của mình.

Điều 4.

1. Các ủy viên Tòa án được Đại hội đồng và Hội đồng bảo an lựa chọn trong số những người có tên trong danh sách theo đề nghị của các tiểu ban dân tộc của Pháp viện thường trực quốc tế phù hợp với những nguyên tắc dưới đây.

2. Đối với các thành viên Liên hợp quốc không có đại diện trong Pháp viện Quốc tế thì các ứng cử viên do các tiểu ban dân tộc được các chính phủ của họ ủy quyền đưa ra, phải tuân thủ các điều kiện đã được điều 44 Công ước Lahay năm 1907 về việc giải quyết bằng phương pháp hòa bình các cuộc xung đột quốc tế quy định đối với các thành viên của Pháp viện thường trực quốc tế.

3. Những điều kiện mà trong đó các quốc gia thành viên của quy chế này, nhưng lại không phải là thành viên của Liên hiệp quốc, có thể tham gia vào việc lựa chọn thành viên của Tòa án, được Đại hội đồng, nếu không có một điều ước đặc biệt, quy định theo sự giới thiệu của Hội đồng bảo an.

Điều 5.

1. Ít nhất là trong vòng 3 tháng, trước khi bầu cử Tổng thư ký liên hiệp quốc gửi cho các ủy viên Pháp viện thường trực quốc tế của các quốc gia thành viên của quy chế này và cho các ủy viên của các tiểu ban dân tộc được chỉ định theo điểm 2 của điều 1 văn bản đề nghị để mỗi một tiểu ban dân tộc, trong khoảng thời hạn quy định, đưa ra những ứng cử viên có thể nhận nhiệm vụ của ủy viên Tòa án.

2. Không một tiểu ban nào được đưa ra quá 4 ứng cử viên, trong đó không quá 2 ứng viên có cùng quốc tịch của một quốc gia được tiểu ban đại diện. Số lượng ứng cử viên được tiểu ban đưa ra trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt quá 2 lần số ghế bầu.

Điều 6. Điều cần thiết là mỗi tiểu ban trước khi đưa ra các ứng cử viên, phải hỏi ý kiến các cơ quan xét xử cao nhất, các khoa luật, các trường Cao đẳng tư pháp và các viện Hàn lâm của các quốc gia đó cũng như các phân viện của các viện Hàn lâm quốc tế chuyên nghiên cứu về luật.

Điều 7.

1. Tổng thư ký Liên hiệp quốc lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những người được đề cử, trừ những trường hợp đã nói ở điểm 2 của Điều 12, chỉ được bầu những người có tên trong danh sách đó.

2. Tổng thư ký trình bản danh sách lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an.

Điều 8. Đại hội đồng và Hội đồng bảo an khi bầu cử ủy viên Tòa án hoàn toàn độc lập nhau.

Điều 9. Khi bầu cử các cử tri cần phải cân nhắc không những chỉ mỗi ứng cử viên nói riêng phải thỏa mãn tất cả những yêu cầu đã nêu ra mà toàn bộ cơ cấu thành phần các thẩm phán nói chung cần phải đảm bảo đại diện của các hình thái văn hóa chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới.

Điều 10.

1. Những người được coi là trúng cử là những ứng cử viên được tuyệt đại đa số phiếu bầu cử ở cả Đại hội đồng cũng như ở cả Hội đồng bảo an.

2. Bất cứ việc biểu quyết nào ở Hội đồng bảo an, cả khi bầu thẩm phán cũng như khi chỉ định ủy viên uỷ ban phối hợp đã được nêu ở điều 12 đều được tiến hành không có sự phân biệt bất kỳ nào giữa các ủy viên thường trực và không thường trực của Hội đồng bảo an.

3. Trong trường hợp nếu như tuyệt đại đa số phiếu cả ở Đại hội đồng cũng như ở Hội đồng bảo an, chọn nhiều công dân của cùng một quốc gia trùng nhau thì người được công nhận trúng cử là người nhiều tuổi hơn

Điều 11. Nếu sau phiên họp thứ nhất triệu tập để bầu cử có một hoặc vài ghế trống thì phải triệu tập phiên thứ hai, trong trường hợp cần thiết phải triệu tập phiên thứ ba.

Điều 12.

1. Nếu sau phiên thứ 3 có một hay vài ghế trống thì trong bất kỳ thời gian nào, theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an, ủy ban phối hợp có thể được triệu tập với thành phần gồm 6 ủy viên: 3 ủy viên theo sự chỉ định của Đại hội đồng, 3 ủy viên theo sự chỉ định của Hội đồng bảo an để bầu lấy một người thế vào mỗi ghế trống với số phiếu chiếm tuyệt đại đa số và đệ trình người được đề cử lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an xem xét.

[...]