Pháp lệnh quy định chế độ phục vụ của sỹ quan công an nhân dân vũ trang năm 1961
Số hiệu | 48/LCT |
Ngày ban hành | 09/08/1961 |
Ngày có hiệu lực | 12/08/1961 |
Loại văn bản | Pháp lệnh |
Cơ quan ban hành | Uỷ ban Thường vụ Quốc hội |
Người ký | Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 48/LCT |
Hà Nội, ngày 12 tháng 8 năm 1961 |
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ PHỤC VỤ CỦA SĨ QUAN CÔNG AN NHÂN DÂN VŨ TRANG
Để đẩy mạnh việc xây dựng lực
lượng Công an nhân dân vũ trang, tăng cường việc bảo vệ an ninh nội địa, bảo vệ
biên giới và bờ biển của Tổ quốc;
Để xác định nhiệm vụ, quyền hạn, vinh dự cho cán bộ Công an nhân dân vũ trang,
nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức và ý thức kỷ luật của cán bộ và
chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang;
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân
vũ trang như sau:
Sĩ quan Công an nhân dân vũ trang phục vụ theo chế độ đã được quy định trong luật ngày 29-4-1958 về chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, trừ những điểm không thích hợp thì theo những quy định dưới đây:
Những người sau đây được bổ sung vào đội ngũ sĩ quan Công an nhân dân vũ trang tại ngũ:
a) Sĩ quan quân đội nhân dân và quân nhân tốt nghiệp các trường đào tạo sĩ quan của Bộ Quốc phòng được chuyển sang Công an nhân dân vũ trang;
b) Cán bộ công an và cán bộ các ngành khác được chuyển sang Công an nhân dân vũ trang;
c) Những người tốt nghiệp các trường đào tạo cán bộ của Bộ Công an;
d) Sĩ quan Công an nhân dân vũ trang dự bị được gọi ra từng người hoặc được tổng động viên;
đ) Hạ sĩ quan và binh sĩ Công an nhân dân vũ trang trong khi chiến đấu đã tỏ ra anh dũng, linh hoạt, lập được chiến công, hoặc trong công tác đã có thành tích xuất sắc.
Việc xét phong cấp bậc sĩ quan Công an nhân dân vũ trang cho cán bộ căn cứ vào phẩm chất chính trị, năng lực, cấp bậc, chức vụ hiện tại, thành tích phục vụ và công lao đối với cách mạng của từng cán bộ.
Những người tốt nghiệp các trường đào tạo sĩ quan của Bộ Quốc phòng, trường đào tạo cán bộ của Bộ Công an, những hạ sĩ quan và binh sĩ trong khi chiến đấu đã tỏ ra anh dũng, linh hoạt, lập được chiến công, hoặc trong công tác đã có thành tích xuất sắc, thì có thể được phong thiếu uý.
Những cán bộ công an và cán bộ các ngành khác được chuyển sang Công an nhân dân vũ trang, tuỳ đức tài, có thể được phong thiếu uý hoặc phong cấp bậc cao hơn.
Về việc phong cấp bậc, thăng hoặc giáng cấp bậc đối với sĩ quan Công an nhân dân vũ trang, nay quy định như sau:
a) Việc phong cấp bậc từ thượng tá trở lên theo như quy định đối với cấp bậc tương đương trong Quân đội nhân dân; việc phong cấp bậc từ trung tá trở xuống thì do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định;
b) Việc thăng lên các cấp bậc từ thượng tá trở lên theo như quy định đối với cấp bậc tương đương trong quân đội nhân dân; việc thăng lên các cấp bậc đại uý, thiếu tá và trung tá thì do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định; việc thăng lên các cấp bậc trung uý và thượng uý thì do Tư lệnh và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang quyết định;
c) Cấp có thẩm quyền cho thăng lên cấp bậc nào thì có thẩm quyền giáng cấp bậc đối với cấp bậc ấy.
Mỗi lần thăng hoặc giáng cấp bậc của sĩ quan, nói chung chỉ được thăng hoặc giáng một bậc.
Trong trường hợp đặc biệt cần thăng vượt bậc lên các cấp bậc từ thượng tá trở lên thì theo như quy định đối với cấp bậc tương đương trong Quân đội nhân dân; từ thiếu uý cho đến trung tá thì do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.
Trong trường hợp phải giáng xuống nhiều bậc thì từ thượng tá trở lên theo như quy định đối với cấp bậc tương đương trong Quân đội nhân dân; từ trung tá trở xuống thì do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.
Tiêu chuẩn và niên hạn tối thiểu của sĩ quan Công an nhân dân vũ trang tại ngũ để xét thăng cấp bậc theo như tiêu chuẩn và niên hạn quy định đối với sĩ quan Quân đội nhân dân.
Thời hạn học tập tại các trường quân sự, chính trị và nghiệp vụ được tính vào niên hạn thăng cấp bậc của sĩ quan Công an nhân dân vũ trang.