Nghị quyết 96/NQ-HĐND năm 2024 thông qua kết quả giám sát việc thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2021-2025

Số hiệu 96/NQ-HĐND
Ngày ban hành 10/12/2024
Ngày có hiệu lực 10/12/2024
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Thái Nguyên
Người ký Phạm Hoàng Sơn
Lĩnh vực Đầu tư

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 96/NQ-HĐND

Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2024

 

NGHỊ QUYẾT

THÔNG QUA KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG TRUNG HẠN TỈNH THÁI NGUYÊN, GIAI ĐOẠN 2021 - 2025

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN KHÓA XIV, KỲ HỌP THỨ HAI MƯƠI BA

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 21/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên về Chương trình giám sát năm 2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên;

Căn cứ Nghị quyết số 98/NQ-HĐND ngày 08 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân tỉnh “Giám sát việc thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2021 - 2025”;

Xét Tờ trình số 177/TTr-ĐGS ngày 03 tháng 12 năm 2024 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên về việc đề nghị thông qua kết quả giám sát việc thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2021 - 2025; Báo cáo thẩm tra của Ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Tán thành Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2021 - 2025. Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế cần tập trung chỉ đạo, lãnh đạo và các giải pháp thực hiện hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo. Cụ thể như sau:

1. Kết quả đạt được

Trong những năm qua, thực hiện quy định của Luật Đầu tư công năm 2019, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh với phương châm “Triển khai tốt, giải ngân nhanh, điều hành linh hoạt”, chú trọng việc xây dựng, triển khai kế hoạch đầu tư công trên địa bàn tỉnh, tập trung chỉ đạo lập Kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm, trên cơ sở bám sát kế hoạch tài chính - ngân sách trung hạn, khả năng ngân sách của địa phương, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công. Việc bố trí vốn đầu tư công ngày càng tập trung, hiệu quả, cơ bản đảm bảo kịp thời, phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn, tiến độ triển khai dự án, tạo điều kiện để các ngành, các cấp chủ động tổ chức thực hiện. Công tác giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo sát sao, đảm bảo tiến độ, tỷ lệ giải ngân vốn hằng năm cao hơn so với mức bình quân chung cả nước. Công tác quản lý, triển khai thực hiện dự án đầu tư công và thanh quyết toán vốn được quan tâm chỉ đạo và triển khai tích cực. Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công được tăng cường, gắn liền với trách nhiệm của người đứng đầu. Công tác theo dõi, giám sát, đánh giá, thanh tra, kiểm tra được tăng cường; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong đầu tư công. Kết quả, nhiều công trình, dự án lớn hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả, nhiều công trình trọng điểm về giao thông, hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội đang được tích cực triển khai; nguồn lực từ đầu tư công đã góp phần khuyến khích, thu hút đầu tư, tổng nguồn lực đầu tư toàn xã hội cho phát triển năm sau cao hơn năm trước, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xây dựng tỉnh Thái Nguyên thực sự trở thành “cực tăng trưởng” của vùng trung du miền núi Bắc Bộ theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10 tháng 2 năm 2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Tồn tại, hạn chế

- Đầu kỳ kế hoạch, việc thực hiện Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn gặp khó khăn, lúng túng trong triển khai thực hiện; việc thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư công trong công tác lập, xây dựng, phân bổ vốn đầu tư công tại một số huyện, thành phố còn hạn chế.

- Chất lượng lập, thẩm định, xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, đặc biệt là chất lượng thẩm định nguồn vốn đầu tư công từ nguồn thu sử dụng đất còn hạn chế, chưa sát với tình hình thực tiễn, một số đơn vị cấp huyện phải điều chỉnh giảm kế hoạch vốn nhiều lần làm ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được phê duyệt.

- Chất lượng công tác lập, thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế kỹ thuật của một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa cao.

- Việc thực hiện đấu thầu và lựa chọn nhà thầu của một số chủ đầu tư vẫn còn hạn chế; tỷ lệ tiết kiệm ngân sách nhà nước qua đấu thầu chưa cao, có địa phương đạt dưới 1%.

- Tỷ lệ giải ngân vốn các Chương trình mục tiêu Quốc gia, vốn ODA và một số dự án còn thấp; có đơn vị cấp huyện bố trí vốn chưa đảm bảo thứ tự ưu tiên theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 07/2020/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh, đặc biệt là việc ưu tiên bố trí vốn đối với các dự án hoàn thành, quyết toán và bàn giao đưa vào sử dụng; một số dự án còn tình trạng bố trí vốn kéo dài, chậm tiến độ so với hợp đồng thi công ký kết, phải điều chỉnh thời gian thực hiện.

- Công tác nghiệm thu, thanh toán, quản lý chi phí đầu tư của một số dự án chưa chính xác, phải điều chỉnh giảm giá trị thanh toán qua công tác thanh tra, kiểm toán; nhiều dự án hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng nhưng chậm hoàn thiện hồ sơ trình phê duyệt quyết toán; còn tình trạng chủ đầu tư một số dự án chưa hoàn thành việc thu hồi tạm ứng theo quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

- Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư công mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa thường xuyên, chất lượng chưa cao, còn tồn tại, hạn chế được các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán của các Bộ, ngành Trung ương phát hiện, xử lý.

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương; phối hợp giữa chủ đầu tư và nhà thầu trong thực hiện đầu tư công có lúc, có việc, có dự án còn chưa chặt chẽ, hiệu quả phối hợp chưa cao, đặc biệt là trong thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hồ sơ giao đất; hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư; hoàn thiện thủ tục giao tài sản chuyên dùng, tài sản đặc biệt sau đầu tư của một số dự án đầu tư công thuộc lĩnh vực quốc phòng; hoàn thiện hồ sơ trình thẩm tra quyết toán.

3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

3.1. Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức pháp luật về đầu tư công, đặc biệt là những quy định mới của Luật Đầu tư công năm 2019 của một số cơ quan, đơn vị, địa phương khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật ở một số khâu, một số nội dung chưa thống nhất.

- Việc dự báo, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thu ngân sách, nhất là thu tiền sử dụng đất chưa sát thực tế làm ảnh hưởng đến việc cân đối và phân bổ nguồn lực để thực hiện và hoàn thành kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.

- Công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý và thực hiện dự án đầu tư công của một số cơ quan, địa phương cấp huyện, cấp xã có lúc, có việc còn thiếu quyết liệt, sâu sát; chưa chủ động kiểm tra, kịp thời hướng dẫn hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư công có việc chưa chặt chẽ, chưa thống nhất. Một số địa phương chưa tích cực trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải phóng mặt bằng của dự án; công tác quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã còn hạn chế; hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý đất đai chưa đồng bộ, việc theo dõi, cập nhật, chỉnh lý biến động đất đai thực hiện chưa thường xuyên.

[...]
11