BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số: 20-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 28 tháng 1 năm 2008
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ X
VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
Xây dựng giai cấp công
nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội.
Giai cấp công nhân Việt
Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
dơanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất
công nghiệp.
Giai cấp công nhân nước
ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
I-
TÌNH HÌNH GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI VỪA QUA
Qua hơn 20 năm đổi mới,
cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân
nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về
cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công
nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát
huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình
phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội
khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng
và Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm
và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, sự phát triển
của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật,
cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản
và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa
vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân
còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai
cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính
sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân
từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng
và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi
ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của
công cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận
công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Tình hình trên bắt nguồn
từ các nguyên nhân: Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đã mở
ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân; tuy nhiên
những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân. Đảng có chú trọng
xây dựng giai cấp công nhân; nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị
trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều
chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công nhân; nhưng những chính sách, pháp
luật này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Công đoàn và các tổ chức chính trị -
xã hội khác có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân;
nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém. Bản thân giai cấp công nhân đã có
nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc
các thành phần kinh tế đóng góp tích cực vào tạo việc làm và thu nhập cho công
nhân; nhưng không ít trường hợp còn vi phạm chính sách, pháp luật đối với người
lao động.
II-
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
A-
Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng giai cấp công nhân
1- Kiên định quan điểm
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo
đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2- Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng
cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
3- Chiến lược xây dựng
giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi
ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.
4- Đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công
nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ
có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế,
có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng
cốt của giai cấp công nhân.
5- Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và
sự nỗ lực vuơn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích
cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong
chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải
gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xây dựng tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh.
B-
Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân
Để thực hiện thắng
lợi mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”, mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là:
Xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức
công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của
dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc,
đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói chung, trong các
doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở đảng, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hoá: có trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học -
công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức;
thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ
giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động cao.
Từ nay đến hết
năm 2010 phải phấn đấu
quyết liệt để đạt được sự chuyển biến tối đa về các mặt sau đây :
1- Hình thành và triển
khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2- Giải quyết có hiệu
quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến
thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm
xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, cơ sở nuôi dạy trẻ...) tương xứng với những
thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của
giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong
các loại hình doanh nghiệp.
3- Có bước tiến về đào
tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời
yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ
lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ
công nhân.
4- Nâng cao hơn về
giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp
và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công
nhân trẻ.
5- Tăng tỉ lệ đảng
viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. Tăng số lượng và chất
lượng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm thành lập tổ chức cơ sở
đảng ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng; đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng tại doanh nghiệp phù hợp với từng
thành phần kinh tế.
6- Đẩy mạnh phát triển
đoàn viên và tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình doanh nghiệp. Củng cố, đổi mới
phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đã có; sớm thành
lập tổ chức cơ sở tại các doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật và điều lệ của các tổ chức đó; tăng số lượng và chất lượng của các tổ chức
cơ sở này tại các loại hình doanh nghiệp, nhất là ở những doanh nghiệp có đông
công nhân.
C-
Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1-
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công
nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Đổi mới tổ chức, tăng
cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra: về xu
hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; về vấn đề trí thức hoá giai cấp công nhân; về công nhân
tham gia sở hữu doanh nghiệp; về mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các
giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về sự phân hoá và mối quan hệ
trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới; về tổ chức
và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp; về vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, quan hệ giữa người sử dụng
lao động và nguời lao động; về mối quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa giai cấp công
nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều kiện toàn cầu hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và tuyên
truyên phản động của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân;... Qua đó
cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng
giai cấp côngnhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
2-
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp
công nhân
Đẩy mạnh đào tạo, đào
tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân từ nông dân, công nhân nữ,
nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước
ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan tâm quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có tài, có đức, các nhà quản lý giỏi và
các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nhân có trình độ cao, có khả
năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế
thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật
và công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp
mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân trong các dân tộc thiểu số, ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú trọng đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên dạy nghề. Có chính sách để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các
cơ sở đào tạo nghề với phương tiện kỹ thuật hiện đại. Có chính sách khuyến
khích liên kết các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp trong đào tạo, đào tạo
lại.
Trước mắt, cần tập
trung bổ sung, sửa đổi, xây dựng
một số chính sách lớn sau đây :
- Xây dựng và thực hiện
hệ thống chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông để giúp cho thanh niên, học
sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề và hiểu rõ được ý nghĩa của việc gia nhập
đội ngũ công nhân; tạo điều kiện phát triển đội ngũ công nhân trẻ có trình độ
cao, chuyển một bộ phận lớn nông dân thành công nhân.
- Nhà nước xây dựng
chiến lược, quy hoạch phát triển dạy nghề một cách đồng bộ, đổi mới hệ thống dạy
nghề đáp ứng yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế nhằm đảm bảo sự
cân đối ngay trong hệ thống giáo dục – đào tạo, giữa hệ thống giáo dục - đào tạo
với phát triển kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao
động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Tăng cường công
tác quản lý nhà nước về dạy nghề. Làm tốt công tác dự báo nhu cầu lao động theo
ngành nghề, cấp trình độ.
- Ban hành chính sách khuyến
khích mạnh mẽ hơn đối với hoạt động đào tạo nghề, thu hút mạnh hơn các thành phần
kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề, bao gồm cả ở trình độ cao:
Từng bước thực hiện đổi mới chi ngân sách cho dạy nghề theo cơ chế đặt hàng, đấu
thầu đối với các cơ sở dạy nghề của các thành phần kinh tế; đồng thời thực hiện
tốt hơn cơ chế kiểm định, đánh giá chất lượng dạy nghề.
- Bổ sung, sửa đổi,
xây dựng chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân; có chính sách khuyến khích,
tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp, ngoại ngữ. Xây dựng, hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo
nghề, gắn đào tạo lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, gắn đào tạo nghề với
giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
giai cấp công nhân và với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động. Đưa vào chương trình đào tạo nghề nội dung học tập pháp luật lao
động, Luật Công đoàn, Luật Doanh nghiệp,...
- Điều chỉnh, bổ sung,
quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành, các chương trình, dự
án lớn, các vùng kinh tế trọng điểm. Ngân sách Nhà nước đầu tư tập trung vào dạy
nghề cho lao động nông thôn, các vùng miền núi, dân tộc thiểu số và những ngành
nghề đặc thù mà các đơn vị ngoài công lập không đầu tư; Nhà nước làm nòng cốt,
đồng thời có chính sách để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng trường
chuẩn, theo chương trình chuẩn, để đào tạo công nhân có trình độ cao cho một số
ngành kinh tế mũi nhọn, yêu cầu kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Chú trọng đào tạo
đồng bộ, cả ở trong và ngoài nước, đội ngũ giáo viên dạy nghề, cán bộ quản lý
và những công nhân có trình độ cao, để đáp ứng yêu cầu nhân lực của nền kinh tế,
nhất là các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Củng cố và mở rộng các trường đào
tạo giáo viên dạy nghề theo khu vực trên phạm vi cả nước.
- Khuyến khích các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hàng năm dành kinh phí thích đáng và
thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công nhân; được tính vào giá trị đầu tư và hạch
toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
- Tăng cường đào tạo đối
với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để đảm bảo có đủ điều kiện
về tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động;
quy hoạch và phảt triển đa dạng các hình thức, các thành phần kinh tế tham gia
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
3-
Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần
dân tộc cho giai cấp công nhân
Cần nâng cao trình độ
chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần
dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế
độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết
tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp,... cho công nhân.
Tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên truyền, giáo dục trong công nhân; đảm bảo định
hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục
từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
Nhà nước đầu tư và có
chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư (được tính vào giá trị
đầu tư và hạch toán vào chi phí sản xuất) xây dựng và hoạt động của các nhà văn
hoá lao động, nhà văn hoá thanh niên, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền
thông đại chúng, nơi sinh hoạt của tổ chức đảng, tổ chức công đoàn, thanh niên,
phụ nữ ở các khu công nghiệp tập trung.
4-
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho công nhân
Rà soát, bổ sung, sủa
đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm và đời sống vật
chất, tinh thần, nâng cao thể chất cho công nhân; tập trung trước hết vào những
chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc đang đặt ra về việc làm
và đời sống của công nhân.
Bổ sung, sửa đổi, xây
dựng các chính sách để phát huy các nguồn lực và trách nhiệm của cả Nhà nước, người
sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, của toàn xã hội và của công
nhân trong việc chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân
tương xứng với năng suất lao động và những đóng góp của công nhân. Nhà nước có
chính sách đầu tư cho các tỉnh, thành phố để xây dựng nhà ở và các công trình
phúc lợi công cộng cho công nhân.
Đề cao trách nhiệm của
nguời sử dụng lao động trong việc chăm lo lợi ích, đời sống vật chất, tinh thần
cho công nhân; tính tự giác của người sử dụng lao động và của công nhân trong
thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của Nhà nước, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác
trong doanh nghiệp; có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm.
Trước mắt, cần tập
trung bổ sung, sửa đổi, xây dựng một số chính sách lớn sau đây :
- Bổ sung, sủa đổi để
bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định về ký hợp đồng lao động và thoả ước lao động
tập thể đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Bổ sung, sửa đổi,
nâng cao tính khả thi của các chính sách, pháp luật để cải thiện điều kiện lao
động, bảo hộ lao động, phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, tăng cường chăm sóc sức khoẻ công nhân, nhất là đối với công nhân nữ,
những công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Nhà nước tăng cường đầu
tư phát triển và nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế,
nhất là ở những nơi có đông công nhân.
- Nghiên cứu ban hành
Luật Tiền lương tối thiểu, nâng lương tối thiểu đối với khu vực sản xuất kinh
doanh; quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người lao động
và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương hợp lý, đồng thời tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra của Nhà nước để đảm bảo quyền lợi của người
lao động; nâng cao năng lực quản lý lao động, tổ chức tiền lương, nhất là công
tác định mức lao động trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bổ
sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các chính sách an sinh xã hội khác. Bổ sung, hoàn
thiện thêm chính sách cho nghỉ hưu sớm đối với công nhân một số nghề nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm.
- Ban hành chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở
cho công nhân, nhất là tại các khu công nghiệp, trên cơ sở quy hoạch của Nhà nước:
Quy định phát triển khu công nghiệp phải đi liền với phát triển khu đô thị mới
và các công trình phúc lợi công cộng, trong đó có khu nhà ở cho công nhân. Có
chính sách về nhà ở cho công nhân thuê hoặc mua trả dần phù hợp với thu nhập thực
tế của công nhân. Nhà nước đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi
công cộng phục vụ lâu dài cho công nhân diện thu nhập thấp; các doanh nghiệp đầu
tư xây dựng nhà ở cho công nhân được tính vào giá trị đầu tư và hạch toán vào
chi phí sản xuất.
- Ban hành quy định
pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các doanh nghiệp của tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tăng cường cơ chế đối thoại, thương
lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Quy định rõ quyền, trách
nhiệm của người sử dụng lao động và công nhân trong xây dựng quan hệ lao động
hài hoà, ổn định, tiến bộ.
- Có chính sách tôn
vinh thích đáng những người lao động giỏi, cả lao động chân tay và trí óc, có
nhiều cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội; bổ sung chính
sách về thi đua và khen thưởng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế.
- Sớm hoàn thiện chính
sách bán cổ phần cho công nhân khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, để công
nhân phát huy quyền làm chủ, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Nghiên cứu chính
sách khuyến khích doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bán cổ phần cho công nhân.
- Tổ chức thực hiện tốt
pháp luật lao động; đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về lao động
trong các doanh nghiệp. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Nhà nước, chủ
doanh nghiệp, công đoàn để giải quyết tranh chấp lao động và xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật về quan hệ lao động để giải quyết vấn đề tranh chấp lao động. Thực hiện
đúng trách nhiệm của các cấp chính quyền ở địa phương theo luật định đối với
các cuộc đình công của công nhân trên địa bàn. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật lao động. Bổ sung các chế tài xử
lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật lao động. Có biện
pháp hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động khi làm việc ở nước
ngoài.
5.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân
- Tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong xây dựng giai cấp công nhân.
Khẩn trương xây dựng
và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược về giai cấp công nhân gắn với chiến
lược phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế, bao gồm các chủ trương,chính sách lớn về đào tạo, trí thức hoá
công nhân; về chuyển một bộ phận lớn lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ; về vấn đề xuất khẩu lao động, kể cả ở các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư kinh doanh ở nước ngoài; vấn đề tạo nguồn để phát triển đảng và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, trong quản lý sản xuất
kinh doanh xuất thân từ công nhân; vấn đề nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của công nhân...
Phát huy mạnh mẽ vai
trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước để giai cấp công nhân là
nòng cốt, cùng với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tăng cường liên minh
công nhân - nông dân - trí thức, thực sự là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội trong xây dựng giai cấp công nhân và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Tăng cường lãnh đạo
Nhà nước trong xây dựng và thực thi các chính sách, pháp luật để xây dựng giai
cấp công nhân lớn mạnh; giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của giai cấp
công nhân.
Chú ý hơn nữa công tác
bồi dưỡng, phát triển đảng trong công nhân. Có cơ chế, chính sách đẩy mạnh việc
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng những cán bộ ưu tú xuất thân từ công
nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất, tăng dần tỉ lệ cán bộ xuất thân từ
công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và các tổ
chức chính trị - xã hội khác. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
tạo cơ hội phát triển cho những cán bộ công đoàn trẻ, cán bộ thanh niên có năng
lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt xuất thân từ công nhân.
Lãnh đạo Đảng và Nhà
nước các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của công nhân và công
đoàn, tôn trọng và phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của tổ chức công đoàn. Chú
trọng lãnh đạo, tạo điều kiện để công đoàn phát huy tốt vị trí, vai trò của
mình.
Tiếp tục đổi mới,
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
trong các doanh nghiệp.
Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các cấp, các ngành và chỉ đạo thực hiện kiên quyết; bổ sung quy
định chế tài cụ thể, đủ mạnh trong các luật để thực hiện nghiêm việc thành lập,
hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức chính trị - xã hội tại các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đồng thời coi trọng tuyên truyền, vận
động, thuyết phục, khuyến khích các chủ doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đồng tình, ủng hộ, tạo điều kiện để tổ chức đảng và
các tổ chức chính trị - xã hội thành lập, hoạt động thuận lợi.
Đẩy mạnh bồi dưỡng
phát triển đảng trong các trường phổ thông, trường đại học, cao đẳng, các trường
đào tạo nghề và trong công nhân, chú trọng phát triển đảng ở những doanh nghiệp
không có hoặc còn ít đảng viên để tạo nguồn thành lập tổ chức cơ sở đảng trong
phần lớn các doanh nghiệp.
Có chính sách động
viên về vật chất, khuyến khích về tinh thần đối với đội ngũ cán bộ đảng ở doanh
nghiệp. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh chính trị, nhiệt tình, tâm huyết và kỹ năng công tác cho cán bộ đảng ở
doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng,
góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, xây dựng doanh nghiệp thịnh vượng.
Có nhiều hình thức
tăng cường và phát triển đảng viên tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, làm nòng cốt xây dựng tổ chức cơ sở đảng, công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam.
Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát
huy vai trò của công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân.
Đổi mới mạnh mẽ nội
dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp. Nghiên cứu việc quy
định cơ cấu đại diện công đoàn vào thường vụ cấp uỷ ở những nơi có nhiều khu
công nghiệp, đông công nhân.
Các cấp công đoàn cần
hướng mạnh hoạt động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy
công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động, xây dựng
quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội làm mục tiêu hoạt động.
Công đoàn cần tăng cường
hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa cho công nhân; tập hợp trí tuệ của công nhân để tham
gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính sách, pháp luật.
Chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là chủ tịch công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp của
tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về trình độ chính trị, hiểu
biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng công tác.
Sớm sửa đổi, bổ sung
Luật Công đoàn để phù hợp, tương thích với các quy định của Hiến pháp, Bộ luật
Lao động, Luật Doanh nghiệp và cảc văn bản pháp luật có liên quan; xác định rõ
vị trí, chức năng, quyền và cơ chế đảm bảo để công đoàn thực hiện tốt chức năng
trong thời kỳ mới. Việc thu kinh phí công đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng
cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh hoạt
văn hoá, thi đua, khen thưởng, phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công
nhân tại chính doanh nghiệp đó, kể cả việc trả lương hoặc phụ cấp lương cho cán
bộ công đoàn tại doanh nghiệp.
Đổi mới nội dung,
phương thức và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ công đoàn. Củng cố, nâng cao
chất lượng dạy và học của Trường Đại học Công đoàn, Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Tăng cường và mở rộng
quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân và công đoàn các nước
trên toàn thế giới.
Đổi mới mạnh mẽ tổ
chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp.
Không ngừng nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở, để công đoàn thực sự là chỗ
dựa vững chắc của công nhân tại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có sức
hấp dẫn đối với người lao động và tạo được sự đồng tình, ủng hộ của người sử dụng
lao động.
Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để nâng cao hiệu
quả công tác nữ công của công đoàn tại các doanh nghiệp và khu công nghiệp.
Sớm bổ sung cơ chế,
chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở và chế độ phụ cấp trách nhiệm cho cán
bộ công đoàn cơ sở.
-Đổi mới và nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp.
Đổi mới nội dung và
phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp nhà nước.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hoá các loại hình, hình thức tập
hợp, vận động thanh niên làm việc trong các doanh nghiệp của tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động Đoàn và Hội.
Hoạt động Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh
nghiệp cần tập trung vào việc tạo điều kiện, không ngừng nâng cao trình độ học
vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, cổ vũ và khơi dậy tiềm năng sáng tạo
trong thanh niên công nhân; thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng để phối hợp
với tổ chức công đoàn bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích, tư vấn, hỗ trợ về mặt
pháp lý và bảo vệ thanh niên công nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng bị xâm phạm.
III-
TỔ CHƯC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội,
Ban cán sự đảng Chính phủ rà soát hệ thống pháp luật và các văn bản liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của công nhân, điều kiện hoạt động của tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị - xã hội khác tại doanh nghiệp để sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới phù hợp với Nghị quyết này.
2- Các ban của Đảng,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ
quán triệt, tuyên truyền và có chương trình hành động cụ thể, đảm bảo Nghị quyết
đi vào cuộc sống.
3- Ban Dân vận Trung
ương và Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm đầu mối cùng các ban của
Đảng, các tổ chức đảng, theo chức năng, nhiệm vụ, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết và báo cáo định kỳ với Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.
|
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nông Đức Mạnh
|
.