Nghị quyết 20/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2019 do Chính phủ ban hành

Số hiệu 20/NQ-CP
Ngày ban hành 19/03/2019
Ngày có hiệu lực 19/03/2019
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Xuân Phúc
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 20/NQ-CP

Hà Nội, ngày 19 tháng 03 năm 2019

 

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 3 NĂM 2019

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, tổ chức vào ngày 08 tháng 3 năm 2019,

QUYẾT NGHỊ:

1. Về nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật:

Công cuộc đổi mới, hội nhập của đất nước đang bước sang giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi Chính phủ phải tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật, trước hết là các đạo luật. Thể chế, pháp luật cần thể hiện sâu sắc tinh thần đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, xử lý kịp thời, hiệu quả, có tính bền vững cao đối với các vấn đề thực tiễn phát triển của đất nước.

Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trực tiếp chỉ đạo, tập trung các nguồn lực, nâng cao chất lượng, bảo đảm tiến độ chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, cũng như các văn bản quy định chi tiết thi hành. Bộ Tư pháp tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tại các phiên họp của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ việc tiếp thu ý kiến thẩm định của cơ quan chủ trì soạn thảo và các vấn đề quan trọng khác của dự án luật; các Bộ, cơ quan ngang bộ nghiêm túc nghiên cứu tiếp thu và giải trình đầy đủ ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp; các thành viên Chính phủ nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc xem xét, cho ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Các Bộ, cơ quan ngang bộ phải coi việc rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên; kịp thời phát hiện và xử lý các quy định trái pháp luật, không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Tư pháp tăng cường việc kiểm tra đối với các thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương; kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý văn bản có quy định trái pháp luật.

2. Về tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự án Luật đầu tư công (sửa đổi) trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Chính phủ đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tích cực phối hợp với cơ quan thẩm tra của Quốc hội, các cơ quan liên quan, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến việc tiếp thu, giải trình đối với dự án Luật.

Về một số vấn đề quan trọng của dự án Luật, Chính phủ thống nhất tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện và giải trình một số nội dung sau:

- Về khái niệm, phạm vi nguồn vốn từ nguồn thu hợp pháp khác của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư: xác định là vốn đầu tư công; hoàn thiện khái niệm, phạm vi nguồn vốn này bảo đảm bao quát, không liệt kê các nguồn vốn này trong Luật; giao Chính phủ quy định chi tiết về phạm vi, trình tự, thủ tục đầu tư đối với nguồn vốn này.

- Về quy định đối với dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng: trường hợp cần thiết tách phần đầu tư cho bồi thường, giải phóng mặt bằng của Dự án đầu tư công trong kế hoạch đầu tư công thành dự án độc lập, báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định; phân định rõ với trường hợp dự án đầu tư công là Dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất công theo quy hoạch với tư cách là một dự án đầu tư công độc lập trong Kế hoạch đầu tư công. Bổ sung, hoàn thiện quy định đối với giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư, bảo đảm công tác chuẩn bị đầu tư được tiến hành chủ động, có chất lượng, nâng cao hiệu quả dự án.

- Về tiêu chí mức vốn phân loại dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C sử dụng vốn đầu tư công: thống nhất quy định tiêu chí mức vốn dự án quan trọng quốc gia là 20.000 tỷ đồng; điều chỉnh tăng tương ứng tiêu chí mức vốn đối với các dự án nhóm A, B, C; rà soát tiêu chí phân loại dự án, bảo đảm đồng bộ về tiêu chí mức vốn, lĩnh vực đầu tư gắn với thẩm quyền quyết định của mỗi cấp.

- Về quy định đối với các dự án không phải quyết định chủ trương đầu tư: Giữ quy định như dự thảo Luật Chính phủ đã trình Quốc hội, theo hướng dự án đặc biệt khác do Chính phủ quy định; các trường hợp khẩn cấp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện trong các trường hợp đặc biệt, khẩn cấp liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có tính chất cấp bách, cần được quyết định ngay, chỉ sử dụng ngân sách dự phòng hàng năm, bảo đảm không ảnh hưởng đến cân đối và bội chi ngân sách chung.

- Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền trình đề xuất chương trình, dự án, quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài: (1) chỉnh lý dự thảo Luật bảo đảm phù hợp với Luật Quản lý nợ công, theo hướng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì trình Đề xuất chương trình, dự án; Bộ Tài chính chủ trì thẩm định về thành tố ưu đãi, tác động của khoản vay đối với các chỉ tiêu an toàn nợ công, cơ chế tài chính trong nước của Đề xuất chương trình, dự án, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc tổng hợp ý kiến thẩm định của Bộ Tài chính, trình Thủ tướng Chính phủ; (2) giữ như quy định hiện hành về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, theo đó Thủ tướng quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án vay ODA, vay ưu đãi nhóm A, B, C để thống nhất thẩm quyền của Trung ương trong việc quản lý nguồn vốn này trong việc kiểm soát nợ công, nợ Chính phủ, đồng thời giao cơ quan thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi là cơ quan trình Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm rõ trách nhiệm trong thẩm định, phê duyệt dự án.

- Về quy định Kế hoạch đầu tư công 03 năm theo phương thức cuốn chiếu: tiếp thu ý kiến kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Cơ bản thống nhất với đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về thẩm quyền, nội dung quyết định kế hoạch đầu tư công trung hạn của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về quyết định danh mục dự án và mức vốn bố trí cho từng dự án cụ thể trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện theo hướng quy định Chính phủ có thẩm quyền quyết định, điều chỉnh, bảo đảm linh hoạt trong điều hành Kế hoạch đầu tư công trung hạn được Quốc hội thông qua, phù hợp với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013.

- Về thẩm quyền của Thường trực Hội đồng nhân dân: Quy định theo hướng chỉ giao Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định một số nhiệm vụ có tính chất cấp bách thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân.

Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp với cơ quan thẩm tra của Quốc hội và các cơ quan liên quan nghiên cứu, rà soát, đề xuất phương án, chỉnh lý, hoàn thiện các quy định về: phạm vi áp dụng Luật này và pháp luật về đầu tư theo hình thức PPP, đầu tư vốn của nhà nước vào doanh nghiệp, đầu tư dự án đầu tư công của doanh nghiệp nhà nước; đối tượng đầu tư công đối với hoạt động cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý, cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng chính sách, các quỹ; căn cứ thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đối với các dự án có thời gian thực hiện kéo dài qua nhiều năm, qua nhiều kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn; sử dụng nguồn vốn dự phòng; thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án; thẩm quyền đối với dự án đầu tư công sử dụng nguồn vốn hỗn hợp; trình tự, thủ tục, tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA không hoàn lại; thời hạn và các mốc thời gian, quy trình xây dựng, thời hạn trình phê duyệt, giao kế hoạch, thời hạn giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn; tiêu chí lựa chọn dự án đầu tư và hiệu quả đầu tư của dự án và các hành vi bị cấm trong đầu tư công.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Báo cáo tiếp thu, giải trình của Chính phủ về dự án Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3. Về dự án Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam:

Đây là dự án Luật rất quan trọng, nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, tạo khuôn khổ pháp lý bảo đảm quyền xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; đồng thời, đáp ứng yêu cầu về quản lý nhà nước, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập cảnh của công dân.

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết ban hành và nội dung cơ bản của dự án Luật.

- Về những vấn đề có ý kiến khác nhau, Chính phủ đã thảo luận và thống nhất: Quy định hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử và có gắn chíp điện tử đều có thời hạn không quá 10 năm; quy định xây dựng một cơ sở dữ liệu về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam được quản lý, khai thác, chia sẻ với các cơ quan cấp, kiểm soát xuất nhập cảnh, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân; trong phạm vi đối tượng và lĩnh vực quản lý được phân công, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hoặc Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định vấn đề kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh đối với người đi trên phương tiện quốc phòng, an ninh để thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo trình tự, thủ tục quy định của Chính phủ.

[...]