BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 18-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày
25 tháng 10 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XII
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ
MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TINH GỌN, HOẠT ĐỘNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Tình hình
Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống
tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được
phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến
pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối;
hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Việc phân công, phân
cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay
hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức
đạt kết quả thấp; tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối
văn phòng; số lãnh đạo cấp phó
nhiều; việc bổ nhiệm cấp "hàm" ở một
số cơ quan Trung ương chưa hợp lý. Cơ chế kiểm soát
quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính chuyển biến chậm, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu. Tuy đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông
tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác
động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương,
phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập,
người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính
sách tiền lương còn bất cập.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối
quan hệ công tác của cấp uỷ cấp tỉnh, cấp uỷ cấp huyện
chưa cụ thể hoá đầy đủ; thiếu quy định khung quy chế làm
việc của cấp uỷ các cấp. Số lượng, cơ cấu,
chất lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các cấp còn một
số bất cập. Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của không ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở và trong doanh
nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập; việc quản lý đảng viên ở nhiều nơi thiếu chặt chẽ; công tác xây dựng tổ
chức đảng, phát triển đảng viên ở một
số địa bàn và trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài
nhà nước còn khó khăn. Nhiều trưởng thôn,
tổ trưởng tổ dân phố không phải là đảng viên. Tổ chức, hoạt
động của một số ban chỉ đạo và ban bảo vệ, chăm sóc
sức khoẻ cán bộ có mặt
còn bất cập.
Năng lực quản lý, điều hành và hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan nhà nước cả ở
Trung ương và địa phương còn hạn chế.
Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân
định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông
thôn, hải đảo. Các đơn vị hành chính
địa phương nhìn chung quy mô nhỏ, nhiều đơn
vị không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy
định, nhất là cấp huyện, cấp xã. Số
lượng, cơ cấu đại biểu dân cử chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Việc thành lập văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội cấp tỉnh làm
phát sinh một số bất cập trong công tác cán bộ, quản lý cán bộ. Nhiều tổ chức phối hợp liên
ngành, ban quản lý dự án trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng "hành chính
hoá", "công chức hoá". Cơ cấu
cán bộ, công chức, viên chức giữa các cấp và trong từng
cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở còn hạn chế. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu
quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội còn bất cập; một số quy định về tổ chức, hoạt động
và cơ chế quản lý tài chính, tài sản
đối với tổ chức công đoàn chưa phù hợp. Tổ chức hội quần
chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở
vật chất và kinh phí hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào
ngân sách nhà nước.
2- Nguyên nhân hạn chế, bất cập
Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị chưa được hoàn thiện, một số bộ phận,
lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nhận thức, ý thức trách
nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là về những hạn chế, yếu kém đang
tác động trực tiếp đến vai trò lãnh đạo, uy
tín của Đảng và niềm tin của nhân
dân.
Công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết
luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn
tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, lợi ích
cục bộ; tư tưởng bao cấp, tâm lý dựa dẫm, trông
chờ vào Nhà nước còn khá phổ biến. Một số cấp uỷ, chính quyền, người đứng đầu
ở các cấp chưa có quyết tâm
cao, nỗ lực lớn và hành động thiếu quyết liệt.
Công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào
một đầu mối. Trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành vẫn quy định về tổ chức bộ máy,
biên chế; một số văn bản pháp luật về tổ chức
còn nội dung chưa phù hợp.
Cơ chế, chính sách khuyến khích việc
sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa phù hợp, thiếu mạnh mẽ. Việc phân bổ kinh phí
thường xuyên theo biên chế chưa
gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của các
tổ chức, cơ quan, đơn vị là một trong những nguyên nhân làm tăng biên chế.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên;
chưa xử lý nghiêm đối với những tập thể, cá
nhân, nhất là người đứng đầu không
hoàn thành nhiệm vụ sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh
giản biên chế; chưa có cơ chế đánh giá phù hợp và thay thế
kịp thời những cán bộ, công chức, viên
chức không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị chưa được
coi trọng và chưa được tiến hành một
cách căn cơ, bài bản, thiết thực; công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp
thời.
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1- Quan điểm chỉ đạo
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và quyền làm
chủ của nhân dân; bám sát Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn kiện
của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị; đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và
đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; nghiêm túc thực hiện
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ
chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất
của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng
địa phương; xác định rõ trách nhiệm của
tập thể và cá nhân, nhất là người đứng
đầu.
- Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông;
kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi
mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên
chế và cải cách chế độ
tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức;
thu hút người có đức, có tài;
bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có
cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người
chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp.
- Có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống
nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng
điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc,
đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và
lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì
thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc
đã có quy định nhưng không còn phù hợp
thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm,
từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ,
phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác
nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có
chủ trương, giải pháp phù hợp.
- Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc
và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm
chính. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
- Làm tốt công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy,
tinh giản biên chế; tăng cường tuyên
truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và
sự đồng thuận trong xã hội, không để các thế lực thù địch, các
phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá,
chia rẽ nội bộ.
2- Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát:
Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng
hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; giảm chi thường xuyên và góp phần cải cách chính sách tiền lương.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2021: (1) Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp,
kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối
bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối
đa cấp trung gian, giảm cấp phó. Sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện một số quy định liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị để kịp thời khắc phục tình trạng trùng
lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý; (2) Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và
kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ
về lý luận và thực tiễn;
(3) Sắp xếp thu gọn hợp lý các đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn
theo quy định về quy mô dân số, diện tích tự nhiên và giảm số lượng thôn, tổ dân phố; (4) Giảm tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015.
- Từ năm 2021 đến năm 2030: (1) Hoàn thành việc nghiên
cứu và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù
hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước
ta trong giai đoạn mới; giảm biên chế; (2) Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ
quan, tổ chức, khắc phục được tình trạng chồng chéo,
trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị; (3) Tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy bằng các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; (4) Phân định rõ và tổ chức thực hiện mô hình chính
quyền nông thôn, đô thị, hải đảo và
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; (5) Cơ
bản hoàn thành việc sắp xếp thu gọn các đơn vị hành chính cấp huyện, xã và thôn, tổ dân phố theo tiêu chuẩn quy
định.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập từ nay đến năm 2030: Thực hiện có hiệu quả theo
lộ trình, mục tiêu và nhiệm vụ, giải
pháp của Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII về "Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản
lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập".
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1- Nhiệm vụ, giải pháp chung đối với toàn bộ hệ thống chính trị
- Thực hiện Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy,
biên chế của toàn hệ thống chính trị, ở Trung ương trực tiếp là Bộ Chính trị, ở địa phương trực tiếp là ban thường vụ cấp uỷ
cấp tỉnh.
- Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện và tổ chức thực hiện mô
hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị
phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Tập trung rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh
gọn đầu mối bên trong các tổ chức của hệ thống
chính trị gắn với tinh giản biên chế,
cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Kiên
quyết giảm và không thành lập mới các
tổ chức trung gian; giải thể hoặc sắp xếp lại các tổ chức hoạt động không hiệu quả. Việc sắp xếp lại
tổ chức bộ máy không được tăng thêm đầu
mối và biên chế; trường hợp đặc biệt cần tăng thêm đầu mối từ cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên phải có ý kiến của Bộ Chính trị.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
mối quan hệ công tác giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo để
một tổ chức, một người có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng
một việc chỉ do một tổ chức, một người chủ trì và chịu trách
nhiệm chính. Thực hiện tinh giản biên
chế theo đúng mục tiêu đã đề ra. Quy định và quản lý chặt
chẽ biên chế đối với các tổ chức
trong hệ thống chính trị trên cơ sở
phân loại tổ chức, tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, công chức, viên
chức và xác định vị trí việc làm một cách khoa học, sát
thực tế. Quy định số lượng biên chế tối thiểu
được thành lập tổ chức, số lượng lãnh đạo cấp phó tối đa
của một tổ chức phù hợp với đặc điểm của từng cấp, từng ngành,
từng địa phương. Quy định cụ thể tiêu chuẩn,
điều kiện, chính sách để giảm phạm vi, đối tượng bổ nhiệm
cấp "hàm"; giảm tỉ lệ người phục vụ trong từng
cơ quan, nhất là khối văn phòng.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, Nhà nước về tổ chức bộ máy của các cấp, các ngành, các địa
phương, bảo đảm đồng bộ, thống nhất. Mạnh dạn thí điểm một
số mô hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy và kiêm
nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; kịp thời sơ kết, tổng kết và mở rộng dần những mô hình phù hợp, hiệu quả.
- Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện
cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, viên
chức để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Tiến hành sơ
kết, tổng kết và đổi mới việc thi tuyển, bổ
nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ, chính
sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách tiền lương. Thực hiện nghiêm chế độ miễn nhiệm, bãi
nhiệm, từ chức, cho thôi việc hoặc thay thế
kịp thời những người kém năng lực, phẩm chất đạo đức, không
đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của chức danh, không hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, công chức, viên chức.
- Thực hiện phân cấp, phân quyền
mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa
phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách
nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân
chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách
nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám
sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động,
sáng tạo và phát huy tính tích cực,
chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện kiểm
tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên
chế trong hệ thống chính trị. Biểu dương,
khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân thực hiện có
hiệu quả; xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá
nhân, nhất là người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, không
đạt mục tiêu tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Đây là một trong
những tiêu chí quan trọng để kiểm điểm, đánh giá,
giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
- Tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ, ứng dụng sâu
rộng khoa học - công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin; đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, đô thị
thông minh; tổng kết, đánh giá để có
giải pháp sử dụng hiệu quả hạ tầng công
nghệ thông tin, chống lãng phí, góp phần tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế. Đầu tư thoả đáng các nguồn lực cho công
tác nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ của hệ thống chính trị. Nghiên cứu sửa đổi quy định và thực hiện việc phân
bổ ngân sách chi thường xuyên đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong hệ thống
chính trị.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất nhận thức
và hành động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Bố trí đủ nguồn lực và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những cán bộ, công chức, viên chức chịu
tác động trực tiếp trong quá trình sắp
xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy. Cảnh giác và chủ động có các giải pháp ngăn chặn các hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch và phần tử xấu.
2- Nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
2.1- Đối với hệ thống tổ chức của Đảng
- Trung ương
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp uỷ cấp tỉnh, cấp
uỷ cấp huyện và cụ thể hoá cho cấp cơ
sở; quy định khung quy chế làm việc của cấp uỷ. Cấp uỷ căn
cứ quy định khung và đặc điểm, tình hình cụ thể để xây dựng quy chế làm việc của cấp mình và hướng dẫn cấp uỷ cấp dưới trực
tiếp xây dựng quy chế làm việc.
- Nghiên cứu, xây dựng quy định về tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng, điều kiện, quy trình hợp lý
để lựa chọn cấp uỷ viên, uỷ viên ban
thường vụ cấp uỷ các cấp.
- Kết thúc hoạt động của các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Tổ chức lại Đảng bộ Ngoài nước và Đảng bộ Bộ Ngoại giao theo hướng vừa bảo đảm quy định chung, vừa bảo đảm
tính đặc thù nhằm tăng cường công
tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng ở ngoài nước. Chuyển Văn phòng
Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương về
Ban Nội chính Trung ương và tổ chức lại cho phù hợp.
- Sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động
của các ban bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ cán bộ theo hướng chuyển giao cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đội ngũ y, bác sĩ cho cơ sở y tế và sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức cho phù hợp.
- Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các đảng uỷ khối cơ quan theo hướng tinh gọn tổ
chức bộ máy và tập trung vào một số
nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đối với các đảng uỷ khối
doanh nghiệp, tiếp tục nghiên cứu, tổ chức lại cho phù
hợp với điều kiện mới ở cả Trung ương, địa phương nhằm nâng
cao tính thực chất và hiệu quả hoạt động.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng theo hướng tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Nhanh chóng khắc phục tình trạng thôn, tổ dân
phố chưa có tổ chức đảng và sơ kết, đánh giá vai trò trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không phải
là đảng viên để có giải pháp phù hợp trong việc bố trí, giới thiệu đảng viên ứng cử.
- Nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập để tăng cường sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng và quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp ngoài nhà nước.
- Thực hiện thống nhất văn phòng cấp uỷ phục vụ chung
các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp uỷ cấp tỉnh; trưởng ban
tuyên giáo đồng thời là giám đốc
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
Cơ bản hợp nhất văn phòng cấp uỷ với văn phòng hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện. Thí điểm việc kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu hoặc hợp
nhất một số cơ quan của Đảng và Nhà nước, cơ quan của Đảng
và Mặt trận Tổ quốc có chức năng, nhiệm
vụ tương đồng ở cấp tỉnh, cấp huyện những nơi có đủ điều
kiện. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là
chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện
bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ
ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ở những
nơi có đủ điều kiện.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của
cấp uỷ từ Trung ương đến địa phương.
2.2- Đối với hệ thống tổ chức của Nhà nước
ở Trung ương
- Thực hiện tăng tỉ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; nghiên cứu việc
giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp. Quy định số lượng với tỉ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, uỷ viên thường trực, uỷ viên chuyên
trách của Hội đồng Dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và uỷ viên thường trực. Sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên
trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh
gọn, hoạt động hiệu quả.
- Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục thực
hiện đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy
theo hướng tập trung vào quản lý vĩ
mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp,
cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo,
điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.
- Khẩn trương rà soát, cương quyết sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm, mối quan hệ công tác giữa các
bộ, ngành và các tổ chức trực thuộc các
bộ, ngành; khắc phục triệt để sự trùng
lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để một tổ
chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một
tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính.
Rà soát, sắp xếp theo hướng giảm các tổ chức
phối hợp liên ngành, nhất là các tổ
chức có bộ phận giúp việc chuyên
trách.
- Các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ chủ động rà soát, sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên
trong, giảm cơ bản số lượng tổng cục, cục, vụ, phòng;
không thành lập tổ chức mới, không thành lập
phòng trong vụ, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền quyết định. Giảm tối đa các ban quản lý
dự án. Kiên quyết hợp nhất, sắp xếp, tổ chức
lại các đơn vị sự nghiệp công lập để
thu gọn đầu mối, giảm biên chế; thực hiện cơ chế khoán
kinh phí theo nhiệm vụ được giao và sản phẩm
đầu ra. Chuyển một số nhiệm vụ và dịch vụ hành
chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải
thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm.
- Rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính
phủ, các bộ, ngành với
chính quyền địa phương để góp phần
tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy
tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế
kiểm soát quyền lực. Rà soát, bổ
sung, hoàn thiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã; quy định rõ cơ chế phân cấp, uỷ quyền và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi
được phân cấp, uỷ quyền giữa các cấp
chính quyền địa phương.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính gắn
kết chặt chẽ với việc kiện toàn tổ chức, giảm đầu mối, bỏ
cấp trung gian, tinh giản biên chế của các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân.
- Đối với một số lĩnh vực được tổ chức theo ngành dọc,
như: Thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã
hội... tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức theo khu vực liên
tỉnh hoặc liên huyện để thu gọn đầu mối,
tinh giản biên chế. Tiếp tục nghiên cứu,
xây dựng tổ chức bộ máy phù hợp với
việc phân cấp ngân sách nhà nước, phát
huy vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương và chủ động của ngân sách địa phương.
- Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương xây dựng
đề án riêng rà soát, kiện toàn, sắp xếp
tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu xây
dựng lực lượng quân đội, công an theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang,
phù hợp với quy định chung của hệ thống chính trị và tính đặc thù của từng lực
lượng.
- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn về phạm vi quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực của một số bộ, ngành, nhất là những bộ, ngành có chức
năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lắp để có giải pháp phù hợp và thực hiện
kiện toàn, sắp xếp tổ chức, thu gọn đầu mối trong nhiệm kỳ
tới, như: Ngành giao thông - xây dựng; tài chính -
kế hoạch đầu tư; lĩnh vực dân tộc - tôn
giáo…
- Tiếp tục nghiên cứu, từng bước sắp xếp thu gọn đầu mối
cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu công
tác điều tra hình sự, phòng, chống tội phạm và phù hợp với tổ chức, hoạt động của
viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân theo tinh thần cải
cách tư pháp.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động, mối
quan hệ công tác của Kiểm toán Nhà nước
và các cơ quan kiểm tra, thanh tra các cấp để không chồng chéo khi thực
hiện nhiệm vụ.
2.3- Đối với chính quyền địa phương
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây
dựng chính quyền địa phương theo hướng phân
định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; chủ động thí điểm
ở những nơi có đủ điều kiện. Nghiên cứu, thực hiện giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp và giảm đại biểu Hội
đồng nhân dân công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước; giảm số lượng phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động để thực hiện từ nhiệm kỳ 2021 - 2026.
- Quy định khung số lượng các cơ quan trực thuộc Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện và khung số lượng cấp phó của các
cơ quan này. Căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Trung ương, cấp uỷ địa phương lãnh đạo
việc sắp xếp, bố trí cho phù hợp. Rà soát, sắp xếp tổ chức bên trong của các sở, ngành theo hướng tinh gọn đầu mối, kiên
quyết cắt giảm số lượng, sắp xếp lại phòng, chi cục, trung tâm, ban quản lý dự
án và đơn vị sự nghiệp thuộc sở, ngành.
- Rà soát, điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của
chính quyền địa phương, góp phần đẩy
mạnh cải cách hành chính, nhất là cải
cách thủ tục hành chính theo hướng dân
chủ, công khai, minh bạch, chuyên
nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả mô
hình trung tâm phục vụ hành chính công, cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở các cấp.
- Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của chính quyền cấp xã và quy định
khung số lượng cán bộ, công chức cấp
xã cho phù hợp theo hướng xác định rõ
vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh, đặc thù của địa phương và bảo đảm giảm biên chế. Quy định và thực hiện nghiêm, thống nhất việc khoán chi
phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách cấp xã và thôn, tổ dân phố.
- Nghiên cứu ban hành quy định để thực hiện hợp nhất văn phòng
Hội đồng nhân dân, văn phòng đoàn đại biểu
Quốc hội và văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành một văn phòng tham mưu giúp
việc chung.
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn, tổ chức lại đơn vị hành
chính cấp huyện, cấp xã chưa đủ tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật; khuyến khích
sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị hành
chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để
nâng cao năng lực quản lý, điều hành
và tăng cường các nguồn lực của địa phương.
Khẩn trương, cương quyết sắp xếp, sáp nhập các
thôn, tổ dân phố không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước.
2.4- Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội và hội quần chúng
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội gắn với đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với đoàn viên, hội viên, từng
bước khắc phục "hành chính hoá" hoạt động và
"công chức hoá" cán bộ; tăng cường
phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội
với các cơ quan, tổ chức có liên quan; tích cực tổ chức triển khai và nâng cao chất lượng giám
sát, phản biện xã hội.
- Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối bên trong gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối
quan hệ công tác của từng tổ chức; kiên quyết cắt giảm số lượng ban, phòng có chức năng, nhiệm
vụ trùng lắp, chồng chéo, hoạt động kém
hiệu quả; sắp xếp, tổ chức lại hoặc giải thể các đơn vị sự nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tinh giản biên
chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ chuyên
trách các cấp, gắn với đổi mới cơ chế phân bổ
ngân sách nhà nước và quản lý
tài chính; nghiêm túc thực hiện việc khoán kinh phí để phát huy tính tích cực, chủ động và tự chủ, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng cường sử dụng đội ngũ cộng tác
viên, tình nguyện viên.
- Thực hiện thí điểm trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở
cấp tỉnh, cấp huyện những nơi đủ điều kiện. Tổng kết mô hình cơ quan chuyên
trách tham mưu, giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện; mở rộng thí điểm ở cấp tỉnh và
thực hiện ở cấp huyện những nơi có đủ điều
kiện.
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế; xây dựng tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, quản lý,
sử dụng hiệu quả tài sản của tổ chức công
đoàn phù hợp với điều kiện mới. Rà soát, sửa
đổi cơ chế quản lý tài chính, nguồn kinh phí công
đoàn bảo đảm quản lý chặt chẽ, công
khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả.
- Quy định chặt chẽ việc thành lập tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng; thực hiện nghiêm túc và nhất quán nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động
và tuân thủ pháp luật; Nhà nước chỉ cấp kinh phí để thực hiện những nhiệm vụ do
Đảng và Nhà nước giao. Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện mô hình tự quản ở cộng đồng
dân cư thôn, tổ dân phố dưới sự chủ
trì của Mặt trận Tổ quốc và bảo đảm sự
lãnh đạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý của chính quyền.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Bộ Chính trị ban hành
Kế hoạch thực hiện, tổ chức quán triệt Nghị
quyết, xác định rõ những việc cần làm
ngay, những việc phải làm theo lộ trình,
phân công cụ thể và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết.
2- Đảng đoàn Quốc hội, Ban
cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, khẩn trương thể chế hoá, cụ thể hoá các
nội dung Nghị quyết, nhất là những việc cần
phải làm ngay.
3- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng,
đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học tập quán triệt,
chủ động xây dựng kế hoạch, đề án cụ
thể để thực hiện Nghị quyết ở cấp mình.
4- Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Bộ Chính
trị, Ban Bí thư thường xuyên theo
dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai và
đề xuất định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết./.
|
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú
Trọng
|