Nghị quyết 16-NQ/TW năm 2012 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 do Bộ Chính trị ban hành
Số hiệu | 16-NQ/TW |
Ngày ban hành | 10/08/2012 |
Ngày có hiệu lực | 10/08/2012 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Bộ Chính trị |
Người ký | Nguyễn Phú Trọng |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính,Văn hóa - Xã hội |
BỘ CHÍNH TRỊ
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM |
Số: 16-NQ/TW |
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2012 |
NGHỊ QUYẾT
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
I- TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 20-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHOÁ IX
1- Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan toả lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động, sáng tạo, đoàn kết, có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.
Mười năm qua, thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX "Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010", trong bối cảnh vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, với tinh thần "vì cả nước, cùng cả nước", Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã quán triệt, cụ thể hoá và thực hiện sáng tạo các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đạt được nhiều thành tựu nổi bật:
Kinh tế liên tục tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, các nguồn lực xã hội được phát huy; quy mô kinh tế tiếp tục được mở rộng; vị trí, vai trò của Thành phố đối với vùng và cả nước ngày càng được khẳng định, đóng góp tích cực vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được nâng lên; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu đô thị mới, chỉnh trang các khu đô thị theo hướng văn minh, hiện đại; di dời hệ thống cảng biển đạt kết quả tích cực; công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường có tiến bộ.
Văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có bước tiến tích cực; hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đã góp phần thiết thực hơn vào quá trình phát triển; chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng nâng cao; chính sách xã hội được quan tâm thực hiện có hiệu quả, hộ nghèo giảm rõ rệt.
Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ có tiến bộ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền chuyển biến tích cực và hiệu quả tốt hơn. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới, hướng về cơ sở.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường; cải cách tư pháp có chuyển biến tích cực; tình hình tham nhũng, lãng phí từng bước được ngăn chặn. Quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển Thành phố.
Sau hơn 25 năm đổi mới và gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thành phố Hồ Chí Minh đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý: "Thành phố Anh hùng", "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân", "Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới", được hai lần tặng thưởng Huân chương Sao vàng.
2- Tuy nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn khó khăn, hạn chế, yếu kém:
- Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh chưa cao; tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp; quy mô, tỉ trọng của khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ; kết quả hợp tác phát triển với các địa phương còn hạn chế.
- Kết cấu hạ tầng vốn đã yếu kém, ngày càng quá tải, bất cập, cản trở việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Quy hoạch và quản lý đô thị chưa theo kịp tốc độ phát triển. Tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường vẫn nghiêm trọng, có mặt ngày càng gay gắt hơn.
- Phát triển văn hoá chưa tương xứng với vai trò, vị trí của Thành phố là một trung tâm văn hoá lớn của vùng và cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Khoa học - công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc chậm được khắc phục; phát triển giáo dục - đào tạo, y tế còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là tình trạng quá tải ở các bệnh viện chuyên khoa ngày càng nghiêm trọng; thể thao thành tích cao bị suy giảm.
- An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn.
- Kết quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế, yếu kém. Hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa cao, tính chiến đấu, sức thuyết phục còn thấp. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, suy thoái tư tưởng chính trị, giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin, suy thoái đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng; công tác quản lý, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, yếu kém; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; cải cách tư pháp còn chậm; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với hệ thống chính trị còn chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ.
3- Những khó khăn, hạn chế, yếu kém nêu trên là do :
- Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền Thành phố trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết còn hạn chế, thiếu quyết liệt. Thành phố chưa quan tâm đúng mức việc tổng kết thực tiễn, chưa kiên trì, kiến nghị với Trung ương để có chủ trương, biện pháp mang tính đột phá.
- Việc thể chế hoá Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị còn chậm, chưa có cơ chế, chính sách phát huy tiềm năng, tạo sức mạnh liên kết của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị loại đặc biệt. Một số bộ, ngành Trung ương còn thiếu chủ động phối hợp với Thành phố trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 20 và Kết luận 15 của Bộ Chính trị để giải quyết một số vấn đề cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của Trung ương.
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
1- Từ nay đến năm 2020, trên cơ sở vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ, Thành phố cần tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, nỗ lực phấn đấu, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển Thành phố nhanh và bền vững với chất lượng và tốc độ cao hơn mức bình quân chung của cả nước, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
2- Để thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát nêu trên, cần tập trung lãnh đạo thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây :
2.1- Khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân thời kỳ 2011 - 2020 cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước; GDP bình quân đầu người cuối năm 2020 đạt khoảng 8.500 USD.
- Thúc đẩy phát triển các nhóm ngành dịch vụ đạt chất lượng, hiệu quả; trong đó, tập trung nâng cao tỉ trọng các ngành dịch vụ: thương mại quốc tế; tài chính, ngân hàng; dịch vụ cảng, kho bãi, hậu cần hàng hải và xuất, nhập khẩu, vận tải đa phương thức; du lịch. Phát triển và quản lý tốt các loại thị trường hàng hoá; thị trường tài chính; thị trường bất động sản; thị trường khoa học - công nghệ; thị trường lao động…
- Tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao (cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hoá dược - cao su; chế biến tinh lương thực, thực phẩm). Lựa chọn một số công đoạn, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong các ngành khác để đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phấn đấu cơ bản hoàn thành vào cuối năm 2015; phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững.
- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, chú trọng thu hút các dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và bảo vệ môi trường. Các thành phần kinh tế cùng phát triển, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp; phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; tiếp tục phát huy tốt sự chủ động liên kết, hợp tác phát triển ngày càng có hiệu quả với các tỉnh, thành phố.
2.2- Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, thiết kế đô thị, quản lý quy hoạch kiến trúc, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quản lý đô thị gắn với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Đầu tư nâng cấp cải tạo, chỉnh trang đô thị cũ. Bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, đặc biệt chú ý khai thác nguồn vốn từ nhà xưởng, quyền sử dụng đất để góp phần tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương liên quan tập trung xây dựng hệ thống giao thông công cộng có sức chở lớn, đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông; các hệ thống cấp nước, thoát nước, chống ngập, xử lý chất thải, hạ tầng năng lượng, hạ tầng viễn thông… Đầu tư xây dựng hệ thống đê ven biển, công trình thuỷ lợi ven sông Sài Gòn, hệ thống cống ngăn triều, kiểm soát lũ, giải quyết cơ bản tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, kết nối với kết cấu hạ tầng các tỉnh lân cận và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực tham gia bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó, hạn chế tác hại do biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
2.3- Nâng cao hiệu quả thực hiện chủ trương xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục - thể thao.