Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Nghị quyết 117/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2019

Số hiệu 117/NQ-CP
Ngày ban hành 09/12/2019
Ngày có hiệu lực 09/12/2019
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Xuân Phúc
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 117/NQ-CP

Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2019

 

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 11 NĂM 2019

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2019, tổ chức vào ngày 02 tháng 12 năm 2019,

QUYẾT NGHỊ:

1. Về tình hình thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP, tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2019

Chính phủ thống nhất đánh giá: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều khó khăn. Kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát, CPI bình quân 11 tháng tăng 2,57%, thấp nhất trong 3 năm gần đây; lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm. Thu ngân sách nhà nước đạt 97,5% dự toán năm. Vốn FDI thực hiện tăng 7,2% so với cùng kỳ. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển ổn định; chăn nuôi gia cầm tăng 12%; sản lượng thủy sản tăng 5,7%, riêng sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 11 tăng 7,9%; dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát. Sản xuất công nghiệp tăng khá, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,8%, riêng tháng 11 năm 2019 tăng 12,6%, cao nhất trong 6 năm trở lại đây. Thu hút khách quốc tế tiếp tục tăng mạnh, trong tháng đạt trên 1,8 triệu lượt người, cao nhất từ trước đến nay; tính chung 11 tháng đạt gần 16,3 triệu lượt người, tăng 15,4%. Xuất khẩu tăng 7,8%, xuất siêu đạt 9,1 tỷ USD; trong đó kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng 18,1%, cao hơn nhiều so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (3,8%). Cả nước có 126,7 nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, tăng 4,5% về số doanh nghiệp và tăng 27,5% về vốn đăng ký. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, khoa học và công nghệ, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường, thông tin, truyền thông tiếp tục được quan tâm. Đời sống dân cư được cải thiện, số hộ thiếu đói giảm 34,2%. Thể thao đạt nhiều thành tích đáng khích lệ. Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác đối ngoại được tăng cường và đạt nhiều kết quả tích cực.

Bên cạnh những kết quả đạt được, nước ta còn những hạn chế, tồn tại và tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng chậm lại. Giá và kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản chủ lực giảm. Giải ngân vốn đầu tư công vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn gặp khó khăn, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tạm ngừng hoạt động chờ giải thể, doanh nghiệp giải thể tăng. Tình trạng phá rừng vẫn diễn ra ở nhiều nơi, nhất là khu vực Tây Nguyên. Nhiều vấn đề xã hội phát sinh còn gây bức xúc; tình hình an ninh trật tự, tai nạn giao thông, cháy nổ, ô nhiễm không khí ở một số nơi diễn biến phức tạp.

Trong tháng cuối năm 2019, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành không được chủ quan, tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp đã đề ra để hoàn thành vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu mà Quốc hội giao năm 2019, tạo nền tảng vững chắc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2020; các Thành viên Chính phủ cần có giải pháp cụ thể, khắc phục kịp thời các tồn tại, hạn chế thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách, nhất là những vấn đề đã được cử tri và Quốc hội nêu tại kỳ họp vừa qua; đồng thời chủ động đề ra phương hướng nhiệm vụ, giải pháp và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết, bảo đảm triển khai kế hoạch năm 2020 ngay từ đầu năm; trong đó tập trung vào một số nội dung sau:

- Các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới, khu vực, diễn biến cung cầu thị trường, giá cả nhất là các mặt hàng thiết yếu để có giải pháp, đối sách phù hợp trong điều hành các chính sách vĩ mô, bình ổn thị trường giá cả, ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu trong dịp cuối năm và Tết Nguyên đán sắp tới.

- Từng bộ, ngành bám sát kịch bản tăng trưởng, có giải pháp điều hành kịp thời, phù hợp để thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thuộc ngành, lĩnh vực quản lý, bảo đảm hoàn thành cao nhất chỉ tiêu đề ra. Tích cực đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công kế hoạch 2019 đạt kết quả cao nhất, nhất là đối với các dự án lớn, quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường giám sát phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công.

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, tạo thuận lợi, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Bảo đảm an ninh, an toàn tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế số; lưu thông tiền tệ thông suốt, nhất là trong dịp cuối năm 2019 và đầu năm 2020. Tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng chính đáng của người dân, góp phần hạn chế tín dụng đen.

- Bộ Tài chính tập trung chỉ đạo hoàn thành dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, phấn đấu tăng thu cao hơn mức đã báo cáo Quốc hội, góp phần tạo thêm nguồn lực đầu tư cho các dự án, công trình quan trọng, cấp bách và cho cải cách tiền lương. Phối hợp với Bộ Công Thương chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; xử lý nghiêm theo quy định các trường hợp vi phạm.

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát việc phân bổ vốn đầu tư công, tránh tình trạng để dư nguồn, không phân bổ hết kế hoạch vốn; hoàn thành công tác giao kế hoạch năm 2020 trước ngày 31 tháng 12 năm 2019. Đôn đốc các bộ, ngành và địa phương tích cực triển khai các giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2019 của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công năm 2019. Chủ động rà soát, trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2019 của những dự án giải ngân chậm, không có khả năng thực hiện sang dự án có khả năng giải ngân cao hơn, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng.

- Chính phủ thống nhất với báo cáo về việc cho phép bố trí kế hoạch đầu tư công năm 2020 trong năm 2019 những dự án sử dụng nguồn dự phòng 10% vốn ngân sách nhà nước tại địa phương có quyết định đầu tư, quyết định chuẩn bị đầu tư và dự toán chuẩn bị đầu tư sau ngày 31 tháng 10 năm 2019 đã được thực hiện theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016.

- Bộ Công Thương tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát triển sản xuất công nghiệp; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai thực hiện các dự án công nghiệp, nhất là các dự án then chốt, quy mô lớn nhằm gia tăng năng lực sản xuất. Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đồng thời duy trì ổn định các thị trường chủ lực. Phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn, hàng rào thương mại để phòng vệ thương mại, bảo vệ sản xuất trong nước phù hợp với thông lệ và các cam kết quốc tế. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam, xây dựng thương hiệu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập; đẩy mạnh triển khai Chương trình “Cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, thúc đẩy tiêu dùng nội địa; tăng cường công tác quản lý cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, ngăn chặn hàng giả, hàng kém chất lượng, nhất là trong dịp cuối năm và Tết Nguyên đán. Chỉ đạo các địa phương có phương án chuẩn bị tốt nguồn cung các mặt hàng thiết yếu cho người dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng bị ảnh hưởng thiên tai, bão lũ, bảo đảm không tăng giá lương thực, thực phẩm. Đẩy nhanh tiến trình phê chuẩn Hiệp định EVFTA vào nửa đầu năm 2020. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu nguồn điện và quy định tính giá điện mặt trời.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Công Thương có phương án bình ổn giá thịt lợn dịp cuối năm, không để thiết hụt nguồn cung, gây sốt giá. Rà soát, đánh giá hiệu quả, có giải pháp cơ cấu lại đội tàu đánh cá theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, đảm bảo năng lực khai thác phù hợp với nguồn lợi hải sản. Mở rộng thị trường xuất khẩu chính ngạch các sản phẩm nông sản; có giải pháp bảo đảm phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản hiệu quả, bền vững. Khẩn trương triển khai các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ các địa phương bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Theo dõi, chủ động phương án phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi.

- Các cấp các ngành tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khơi thông nguồn lực, tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo. Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải pháp khắc phục tình trạng chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra.

- Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổ công tác đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Tổ trưởng, có sự tham gia của các bộ, cơ quan liên quan để rà soát những quy định pháp luật chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, gây khó khăn, kìm hãm sự phát triển; lập danh mục các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

- Bộ Tư pháp thông qua thực tiễn tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế, chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan liên quan rà soát nguyên nhân, chấn chỉnh công tác thi hành pháp luật và các vấn đề cần lưu yếu trong đàm phán các điều ước quốc tế có cam kết về bảo hộ đầu tư, đề xuất giải pháp giảm thiểu các tranh chấp quốc tế, hoàn thiện pháp luật trong nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục làm tốt chính sách an sinh xã hội, tập trung thực hiện tốt chính sách đối với người có công, chăm lo các đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, nhất là trước, trong và sau Tết Nguyên đán. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề, tạo việc làm. Tăng cường kiểm tra an toàn lao động, phòng chống cháy nổ.

- Bộ Y tế khẩn trương chỉ đạo thực hiện thí điểm tự chủ 4 Bệnh viện thuộc Bộ Y tế theo Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2019 của Chính phủ; trong đó về tổ chức và nhân sự (Điểm a. 2 Mục II Điều 1) theo hướng Chủ tịch Hội đồng quản lý không kiêm nhiệm Tổng Giám đốc/Giám đốc bệnh viện trong thời gian thực hiện thí điểm.

- Bộ Khoa học và Công nghệ phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, liên kết chặt chẽ với cộng đồng khởi nghiệp trong khu vực và quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đưa nhanh các thành tựu khoa học và công nghệ vào cuộc sống.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường xúc tiến, quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch thu hút khách du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh thể thao thành tích cao, từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trong khu vực và thế giới.

- Bộ Giao thông vận tải có phương án bảo đảm an toàn giao thông dịp cuối năm và phục vụ tốt nhất nhu cầu đi lại của người dân dịp Tết Nguyên đán. Khẩn trương triển khai hệ thống thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử tự động không dừng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền. Tập trung chỉ đạo bảo đảm tiến độ triển khai các dự án công trình giao thông trọng điểm. Khẩn trương lựa chọn nhà thầu để thực hiện dự án đường bộ cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ.

- Bộ Quốc phòng tiếp tục tăng cường bảo đảm quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chủ động ứng phó, kịp thời xử lý các tình huống, ngăn chặn có hiệu quả các âm mưu, hoạt động chống phá. Cùng các bộ, ngành, địa phương liên quan tăng cường phổ biến pháp luật, hướng dẫn ngư dân không đánh bắt ở vùng biển nước ngoài.

[...]