Nghị quyết 113/2008/NQ-HĐND về đổi mới, phát triển kinh hợp tác, hợp tác xã giai đoạn từ nay đến năm 2015 do tỉnh Quảng Nam ban hành
Số hiệu | 113/2008/NQ-HĐND |
Ngày ban hành | 30/07/2008 |
Ngày có hiệu lực | 09/08/2008 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Quảng Nam |
Người ký | Nguyễn Văn Sỹ |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp,Thương mại,Văn hóa - Xã hội |
HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 113/2008/NQ-HĐND |
Tam Kỳ, ngày 30 tháng 7 năm 2008 |
VỀ ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN KINH HỢP TÁC, HỢP TÁC XÃ TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2015
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG
NAM
KHÓA VII, KỲ HỌP THỨ 17
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND ngày 03 tháng 12 năm 2004;
Căn cứ Luật Hợp tác xã năm 2003;
Sau khi xem xét Đề án kèm theo Tờ trình số: 2353/TTr-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2008 của UBND tỉnh về đề nghị phê duyệt Đề án Đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã tỉnh Quảng Nam từ nay đến năm 2010 và tính đến 2015; Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế và Ngân sách; ý kiến thảo luận tại kỳ họp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Thống nhất thông qua Đề án Đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX) tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ nay đến năm 2015 kèm theo Tờ trình số 2353/TTr-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2008 của UBND tỉnh với nội dung chủ yếu sau:
Đưa kinh tế hợp tác, HTX tỉnh Quảng Nam thoát khỏi tình trạng yếu kém, thể hiện được vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, tạo sự chuyển biến về quản lý, sở hữu, phân phối. HTX được tăng cường về nguồn lực lao động, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ. Phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với nhu cầu và tinh thần tự nguyện của mỗi cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế.
2.1. Đến năm 2010: Tất cả các HTX thuộc diện yếu kém được xử lý giải thể hoặc chuyển đổi hoạt động theo mô hình tổ hợp tác (THT), HTX kiểu mới; đạt 50% HTX thuộc diện khá – giỏi; đóng góp vào cơ cấu GDP của tỉnh 9-10% .
2.2. Đến năm 2015: đạt 70% HTX thuộc diện khá – giỏi, 50% cán bộ chủ chốt HTX đạt trình độ chuyên môn nghiệp vụ Cao đẳng và Đại học trở lên; đóng góp vào cơ cấu GDP của tỉnh 12- 13%.
3. Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác, HTX:
3.2. Kiên quyết giải thể các HTX tồn tại hình thức, hoạt động không đúng với bản chất HTX theo quy định Luật HTX.
3.3. Tập trung chỉ đạo giải quyết những tồn đọng của HTX: Xác định và sát nhập cổ phần xã viên trên tinh thần tự nguyện, xác định tư cách xã viên, xử lý công nợ và làm rõ quan hệ sở hữu tài sản trong HTX.
3.4. Thực hiện đồng bộ chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh:
3.4.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho đội ngũ quản lý và xã viên làm công việc chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ trong HTX theo quy định tại Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX (sau đây gọi là Nghị định số 88/2005/NĐ-CP). Ngoài ra, tỉnh hỗ trợ thêm từ ngân sách với mức tối thiểu 5 triệu đồng/năm/người cho các đối tượng đủ điều kiện trúng tuyển vào các trường Cao đẳng, Đại học hoặc các năm học tiếp theo cho các đối tượng đang học tại các trường Cao đẳng, Đại học mà HTX có nhu cầu sử dụng sau khi tốt nghiệp nếu có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 4, Điều 4, Nghị định 88/2005/NĐ-CP.
Khuyến khích các HTX có chính sách riêng thu hút người có trình độ Cao đẳng, Đại học hoặc trên Đại học và người có tay nghề cao về làm việc trong HTX.
Khuyến khích cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan Nhà nước về làm việc tại các HTX theo yêu cầu của cơ sở; trong thời gian làm việc tại HTX được giữ nguyên lương, đóng Bảo hiểm Xã hội và các chế độ khác do Ngân sách Nhà nước cấp. Ngoài ra, tùy theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, HTX chi trả thêm phần phụ cấp hợp lý cho đối tượng nói trên. Sau thời gian công tác 03 đến 05 năm, nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở cơ sở, cơ quan quản lý cán bộ cân nhắc đề bạt cán bộ đó ở vị trí công tác cao hơn.
Các địa phương được điều động cán bộ dự nguồn có năng lực và tâm huyết về làm việc tại HTX có nhu cầu. Cán bộ dự nguồn được hưởng nguyên lương, Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế và các phụ cấp khác (nếu có) do ngân sách nhà nước cấp. Ngoài ra, được hưởng phần thù lao công việc tại HTX.
Việc điều động, bổ nhiệm những người quản lý chủ chốt của HTX vào các cơ quan Nhà nước cần có sự thống nhất với Ban quản trị HTX trước khi quyết định.
3.4.2. Chính sách đối với đội ngũ quản lý chủ chốt làm việc lâu năm trong HTX:
Đối với đội ngũ quản lý chủ chốt Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm, Kế toán trưởng hay phụ trách kế toán (nơi chỉ có 01 kế toán), Trưởng Ban Kiểm soát hay phụ trách kiểm soát (nơi chỉ có 01 kiểm soát) và Ủy viên Ban Quản trị làm việc liên tục từ năm 1980 trở về trước cho đến nay (có quá trình công tác tốt, không vi phạm pháp luật hoặc chịu hình thức kỷ luật nào), khi nghỉ việc được ngân sách hỗ trợ mỗi năm làm việc tại HTX ½ (nửa) tháng lương theo mức lương tối thiểu của công chức (tại thời điểm thực hiện chính sách).