Nghị quyết 1078/2007/NQ-UBTVQH11 hướng dẫn về tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Số hiệu | 1078/2007/NQ-UBTVQH11 |
Ngày ban hành | 29/01/2007 |
Ngày có hiệu lực | 29/01/2007 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Uỷ ban Thường vụ Quốc hội |
Người ký | Nguyễn Phú Trọng |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
UỶ
BAN THƯỜNG VỤ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1078/2007/NQ/UBTVQH11 |
Hà Nội, ngày 29 tháng 01 năm 2007 |
BAN HÀNH “HƯỚNG DẪN MỘT SỐ ĐIỂM VỀ VIỆC TỔ CHỨC CUỘC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ XII”
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
- Căn cứ Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 31/2001/QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
- Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
QUYẾT NGHỊ:
|
T/M
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
MỘT SÔ ĐIỂM VỀ VIỆC TỔ CHỨC CUỘC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
KHÓA XII
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 1078/2007/NQ/UBTVQH11 ngày 29 tháng 01
năm 2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội)
Điều 1. Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử
Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử tại Điều 2 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định như sau:
1. Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu đại biểu Quốc hội đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định. Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.
Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm sau.
2. Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
1. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đủ mười tám tuổi trở lên, đang cư trú tại nơi mình có hộ khẩu thường trú và không thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri quy định tại Điều 3 của hướng dẫn này thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký thường trú và bầu cử đại biểu Quốc hội tại nơi đó.
2. Trong thời hạn lập danh sách cử tri, những người chưa có hộ khẩu thường trú nhưng có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan có thẩm quyền ở nơi cư trú cũ thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi cư trú mới để tham gia bầu cử.
3. Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi lao động, làm ăn hoặc vì lý do khác, nếu đã đăng ký tạm trú từ sáu tháng trở lên ở nơi cư trú mới thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại địa phương nơi cư trú mới để thực hiện quyền bầu cử.
4. Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi thăm người thân, đi du lịch hoặc vì lý do khác thì ghi tên vào danh sách cử tri nơi đăng ký hộ khẩu thường trú để thực hiện quyền bầu cử.
5. Sinh viên, học sinh, học viên có hộ khẩu tạm trú ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi học tập, công tác hoặc nơi đóng quân để tham gia bầu cử.
6. Quân nhân có hộ khẩu thường trú tại địa phương (gần nơi đóng quân) có thể được Thủ trưởng đơn vị cấp giấy chứng nhận để ghi tên vào danh sách cử tri tham gia bỏ phiếu bầu cử ở nơi cư trú.
7. Kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bỏ phiếu, cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị vũ trang nhân dân đang đi công tác và những người di cư tự do, đi lao động, làm công, đi thăm người thân, đi du lịch ở nơi nào thì xuất trình thẻ cử tri do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân xã) nơi cư trú cấp hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" do chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp tại Uỷ ban nhân xã nơi mới đến để được ghi tên bổ sung vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi đó; nếu họ chưa có thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" thì Uỷ ban nhân dân xã phải yêu cầu những người này liên hệ với Uỷ ban nhân dân xã hoặc chỉ huy đơn vị nơi lập danh sách cử tri trước ngày niêm yết danh sách cử tri để nhận thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" để được bầu cử ở nơi mới đến.
UỶ
BAN THƯỜNG VỤ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1078/2007/NQ/UBTVQH11 |
Hà Nội, ngày 29 tháng 01 năm 2007 |
BAN HÀNH “HƯỚNG DẪN MỘT SỐ ĐIỂM VỀ VIỆC TỔ CHỨC CUỘC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ XII”
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
- Căn cứ Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 31/2001/QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
- Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
QUYẾT NGHỊ:
|
T/M
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
MỘT SÔ ĐIỂM VỀ VIỆC TỔ CHỨC CUỘC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
KHÓA XII
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 1078/2007/NQ/UBTVQH11 ngày 29 tháng 01
năm 2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội)
Điều 1. Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử
Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử tại Điều 2 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định như sau:
1. Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu đại biểu Quốc hội đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định. Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.
Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm sau.
2. Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
1. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đủ mười tám tuổi trở lên, đang cư trú tại nơi mình có hộ khẩu thường trú và không thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri quy định tại Điều 3 của hướng dẫn này thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký thường trú và bầu cử đại biểu Quốc hội tại nơi đó.
2. Trong thời hạn lập danh sách cử tri, những người chưa có hộ khẩu thường trú nhưng có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan có thẩm quyền ở nơi cư trú cũ thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi cư trú mới để tham gia bầu cử.
3. Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi lao động, làm ăn hoặc vì lý do khác, nếu đã đăng ký tạm trú từ sáu tháng trở lên ở nơi cư trú mới thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại địa phương nơi cư trú mới để thực hiện quyền bầu cử.
4. Trường hợp người tạm vắng khỏi nơi cư trú để đi thăm người thân, đi du lịch hoặc vì lý do khác thì ghi tên vào danh sách cử tri nơi đăng ký hộ khẩu thường trú để thực hiện quyền bầu cử.
5. Sinh viên, học sinh, học viên có hộ khẩu tạm trú ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi học tập, công tác hoặc nơi đóng quân để tham gia bầu cử.
6. Quân nhân có hộ khẩu thường trú tại địa phương (gần nơi đóng quân) có thể được Thủ trưởng đơn vị cấp giấy chứng nhận để ghi tên vào danh sách cử tri tham gia bỏ phiếu bầu cử ở nơi cư trú.
7. Kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bỏ phiếu, cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị vũ trang nhân dân đang đi công tác và những người di cư tự do, đi lao động, làm công, đi thăm người thân, đi du lịch ở nơi nào thì xuất trình thẻ cử tri do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân xã) nơi cư trú cấp hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" do chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp tại Uỷ ban nhân xã nơi mới đến để được ghi tên bổ sung vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi đó; nếu họ chưa có thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" thì Uỷ ban nhân dân xã phải yêu cầu những người này liên hệ với Uỷ ban nhân dân xã hoặc chỉ huy đơn vị nơi lập danh sách cử tri trước ngày niêm yết danh sách cử tri để nhận thẻ cử tri hoặc giấy chứng nhận "đi bỏ phiếu nơi khác" để được bầu cử ở nơi mới đến.
8. Công dân Việt Nam công tác, lao động, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc định cư ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được công bố đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ, thì đến Uỷ ban nhân dân xã nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri.
Điều 3. Những trường hợp không được ghi tên hoặc bị xóa tên trong danh sách cử tri
1. Những trường hợp sau đây không được ghi tên vào danh sách cử tri:
a) Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;
b) Người đang phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc bị kết án tử hình đang trong thời gian xin ân giảm hoặc chưa thi hành án;
c) Bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của pháp luật;
d) Người mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Toà án hoặc có xác nhận của bệnh viện tâm thần hoặc chuyên khoa tâm thần của bệnh viện đa khoa.
2. Người thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn mất năng lực hành vi dân sự thì đến Uỷ ban nhân dân xã nơi thường trú hoặc nơi tạm trú đề nghị được bổ sung vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri.
3. Người đã có tên trong danh sách cử tri nếu đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt tạm giam, bị tuyên bố mất tích hoặc bị chết, bị mất năng lực hành vi dân sự thì Toà án hoặc cơ quan hữu quan phải thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã đã lập danh sách cử tri để xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.
Điều 4. Những người không được ứng cử đại biểu Quốc hội
Những người sau đây không được ứng cử đại biểu Quốc hội:
1. Người đang bị tước quyền bầu cử, quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự;
2. Người đang bị khởi tố về hình sự;
3. Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án;
4. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa được xoá án tích;
5. Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
Điều 5. Xoá tên người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội
1. Người đã có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị chết, thì Uỷ ban bầu cử phải báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để xoá tên người đó trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
2. Trường hợp người ứng cử đã được Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đưa vào danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, nhưng trong thời gian Hội đồng bầu cử chưa công bố danh sách này người đó có hành vi vi phạm pháp luật thì xử lý như sau:
a) Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc xoá tên người ứng cử đại biểu Quốc hội vi phạm pháp luật đã được Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu;
b) Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau khi trao đổi ý kiến với Uỷ ban bầu cử đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc xoá tên người ứng cử đại biểu Quốc hội vi phạm pháp luật đã được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giới thiệu.
Điều 6. Số người ứng cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử
1. Số người ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu Quốc hội được bầu ở đơn vị đó ít nhất là hai người, trừ trường hợp khuyết người ứng cử sau khi danh sách những người ứng cử đã được công bố do một hoặc một số người ứng cử bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị chết hoặc vì lý do khác phải xoá tên hoặc rút tên khỏi danh sách người ứng cử.
2. Trong trường hợp Hội đồng bầu cử quyết định xoá tên người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội làm cho số người ứng cử trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử không nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó, thì Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau khi thống nhất với Uỷ ban bầu cử, chọn người có tín nhiệm cao nhất trong số người còn lại ở danh sách đã hiệp thương lần thứ ba để đưa vào danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và báo cáo Hội đồng bầu cử xem xét quyết định; nếu trong danh sách hiệp thương lần thứ ba không có người có tín nhiệm cao nhất thì Uỷ ban bầu cử báo cáo Hội đồng bầu cử xem xét quyết định việc chuyển người ứng cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử có số dư người ứng cử từ ba người trở lên đến đơn vị bầu cử không có số người ứng cử nhiều hơn số đại biểu Quốc hội được bầu. Trong trường hợp không chọn được người có tín nhiệm cao nhất trong số người đã đưa ra Hiệp thương lần thứ ba và không có đơn vị bầu cử nào có số dư người ứng cử từ ba người trở lên thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định giảm số đại biểu Quốc hội được bầu ở đơn vị bầu cử đó.
Điều 7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử đại biểu Quốc hội
1. Kể từ ngày công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo về người ứng cử; khiếu nại, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử với Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử, Hội đồng bầu cử. Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử, Hội đồng bầu cử phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo thẩm quyền.
Trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử thì có quyền khiếu nại với Hội đồng bầu cử. Quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
2. Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử, Hội đồng bầu cử ngưng việc tiếp nhận, xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị mới về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.
Những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đã được tiếp nhận trước thời điểm này vẫn tiếp tục được xem xét, giải quyết. Trong trường hợp những khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đủ tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội thì Hội đồng bầu cử quyết định xoá tên người đó trong danh sách những người ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri biết.
3. Không xem xét, giải quyết đối với những đơn khiếu nại, tố cáo nặc danh.
4. Hội đồng bầu cử chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết và những khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết nhưng đương sự vẫn không đồng ý đến Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá mới để giải quyết theo thẩm quyền.
Điều 8. Vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội
Vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc cử tri hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng để người ứng cử đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội và trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương nào thực hiện quyền vận động bầu cử ở địa phương đó.
Điều 9. Mục đích, yêu cầu vận động bầu cử
1. Mục đích của việc tổ chức vận động bầu cử:
a) Tạo điều kiện cho người ứng cử đại biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để báo cáo với cử tri dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội;
b) Tạo điều kiện để cử tri tiếp xúc với người ứng cử, hiểu rõ hơn người ứng cử; trên cơ sở đó cân nhắc, lựa chọn, bầu những người đủ tiêu chuẩn làm đại biểu Quốc hội.
2. Việc tổ chức vận động bầu cử phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Dân chủ, bình đẳng và xây dựng trong vận động bầu cử, tạo không khí trao đổi thẳng thắn, cởi mở giữa người ứng cử và cử tri;
b) Không được lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, uy tín và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác;
c) Không biến vận động bầu cử thành nơi để khiếu nại, tố cáo hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
d) Không được lạm dụng uy tín, chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý các phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử;
đ) Không được lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và ngoài nước cho tổ chức, cá nhân mình;
e) Không được sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân để lôi kéo, mua chuộc cử tri;
g) Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình vận động bầu cử.
Điều 10. Hình thức, nội dung vận động bầu cử
1. Việc vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội được tiến hành dưới các hình thức sau đây:
a) Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương nơi mình ứng cử tổ chức;
b) Trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Nội dung vận động bầu cử của người ứng cử bao gồm:
a) Người ứng cử trình bày dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội;
b) Người ứng cử trình bày ý kiến của mình về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội;
c) Người ứng cử và cử tri trao đổi về những vấn đề cùng quan tâm;
d) Người ứng cử trả lời các câu hỏi của cử tri.
Điều 11. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong vận động bầu cử
Trách nhiệm tổ chức cho người ứng cử đại biểu Quốc hội vận động bầu cử được quy định như sau:
1. Uỷ ban bầu cử chỉ đạo công tác vận động bầu cử và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về vận động bầu cử ở địa phương;
2. Các cơ quan báo chí ở trung ương có trách nhiệm đưa tin về tình hình vận động bầu cử trong phạm vi cả nước, đưa tin về hoạt động của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình tổ chức bầu cử;
3. Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri cho người ứng cử đại biểu Quốc hội;
4. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và chính quyền địa phương các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cho người ứng cử đại biểu Quốc hội tiếp xúc với cử tri ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; bảo đảm cho việc tổ chức vận động bầu cử được tiến hành công khai, dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật;
5. Các cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương có trách nhiệm đưa tin về Hội nghị tiếp xúc cử tri, trả lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Điều 12. Hội nghị tiếp xúc cử tri
Việc tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri của người ứng cử đại biểu Quốc hội được quy định như sau:
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Ban thường trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp giới thiệu những nội dung cơ bản về tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để người ứng cử xây dựng dự kiến chương trình hành động của mình.
Người được trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương nào cần kết hợp nghiên cứu tình hình địa phương đó và tình hình chung của cả nước để xây dựng dự kiến chương trình hành động của mình;
2. Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, thành phần gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa phương.
Ủy ban nhân dân nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri có trách nhiệm thông báo về thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị để cử tri tham dự đông đủ.
3. Chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri gồm:
a) Tuyên bố lý do;
b) Đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì cuộc tiếp xúc cử tri giới thiệu và đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử;
c) Từng người ứng cử báo cáo với cử tri về dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội;
d) Cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm;
đ) Người chủ trì Hội nghị phát biểu ý kiến kết thúc Hội nghị.
4. Sau Hội nghị tiếp xúc cử tri, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập báo cáo tình hình tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, ý kiến của cử tri về từng người ứng cử gửi đến Hội đồng bầu cử và Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Điều 13. Vận động bầu cử trên các phương tiện thông tin đại chúng
Việc vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội trên các phương tiện thông tin đại chúng được quy định như sau:
1. Người ứng cử đại biểu Quốc hội tiếp xúc, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử đại biểu Quốc hội của Hội đồng bầu cử để trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Hội đồng bầu cử có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan quản lý trang thông tin điện tử của Hội đồng bầu cử thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc đăng tải nội dung vận động bầu cử;
2. Nội dung phỏng vấn gồm những vấn đề được quy định tại điểm 2 Điều 10 của bản Hướng dẫn này.
3. Trên cơ sở chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Sở Văn hoá - Thông tin cùng cấp tổ chức việc đăng tải nội dung phỏng vấn từng người ứng cử đại biểu Quốc hội trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, bảo đảm bình đẳng, đúng pháp luật, công bằng giữa những người ứng cử đại biểu Quốc hội, tuân thủ các quy định về vận động bầu cử.
Điều 14. Kinh phí vận động bầu cử
Kinh phí vận động bầu cử do ngân sách nhà nước cấp từ kinh phí hoạt động thường xuyên của các cơ quan, tổ chức và kinh phí phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII.
Điều 15. Thời gian tiến hành vận động bầu cử
Việc tổ chức để những người ứng cử đại biểu Quốc hội thực hiện quyền vận động bầu cử được bắt đầu từ ngày Hội đồng bầu cử công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội và kết thúc hai mươi bốn giờ trước giờ bỏ phiếu.
Người đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì được phát thẻ cử tri
Thẻ cử tri của công dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú ký tên và đóng dấu.
Thẻ cử tri của công dân ở đơn vị vũ trang nhân dân do chỉ huy đơn vị ký tên và đóng dấu.
Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu "đã bỏ phiếu" vào thẻ cử tri.
Điều 17. Khu vực bỏ phiếu, địa điểm bỏ phiếu
1. Mỗi khu vực bỏ phiếu phải có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri, trừ miền núi, hải đảo, những nơi dân cư không tập trung, có điều kiện địa lý, giao thông không thuận lợi cho việc đi lại, cách biệt với những khu vực khác hoặc do yêu cầu đặc biệt của đơn vị vũ trang nhân dân thì chưa tới ba trăm cử tri cũng có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi cử tri trở lên có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
2. Địa điểm bỏ phiếu phải được trang trí trang nghiêm, tiết kiệm, thuận tiện cho cử tri đến bầu cử, có đầy đủ bàn, ghế, bút, mực và các vật dụng khác phục vụ cho việc bầu cử.
Điều 18. Xác định phiếu hợp lệ và phiếu không hợp lệ
1. Những phiếu sau đây là phiếu hợp lệ:
a) Phiếu bầu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát, có dấu của Tổ bầu cử;
b) Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số đại biểu Quốc hội mà đơn vị bầu cử được bầu;
c) Phiếu bầu gạch tên các ứng cử viên không được tín nhiệm bằng cách gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang, nhưng phải gạch hết họ và tên.
2. Những phiếu sau đây là phiếu không hợp lệ:
a) Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
b) Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
c) Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
d) Phiếu gạch, xoá hết tên những người ứng cử;
đ) Phiếu ghi tên người ngoài danh sách những người ứng cử; phiếu có viết thêm; phiếu gạch vào khoảng cách giữa họ và tên hai ứng cử viên; phiếu khoanh tròn họ và tên ứng cử viên.
Điều 19. Báo cáo tình hình trong ngày bầu cử
1. Trong ngày bầu cử, Uỷ ban bầu cử phải báo cáo với Hội đồng bầu cử về các nội dung sau:
a) Việc chuẩn bị các điều kiện phục vụ cho ngày bầu cử;
b) Những thuận lợi, khó khăn về giao thông, thời tiết ảnh hưởng đến việc bầu cử;
c) Số cử tri đi bầu và tiến độ cử tri đi bầu;
d) Dư luận trong nhân dân về cuộc bầu cử và những người ứng cử đại biểu Quốc hội;
đ) Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn.
2. Việc báo cáo được thực hiện trực tiếp bằng điện thoại, thư điện tử hoặc fax đến Hội đồng bầu cử theo tiến độ hai giờ một lần. Kết thúc ngày bầu cử, Uỷ ban bầu cử báo cáo đầy đủ với Hội đồng bầu cử các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này bằng fax; ở những nơi có sự cố đột xuất xảy ra, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc bầu cử thì phải báo cáo ngay với Hội đồng bầu cử để xin ý kiến chỉ đạo.
3. Uỷ ban bầu cử có bộ phận thường trực để tiếp nhận thông tin từ các Ban bầu cử, Tổ bầu cử gửi đến.
Điều 20. Biên bản xác định kết quả bầu cử
1. Sau khi kết thúc cuộc bầu cử, Uỷ ban bầu cử lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương theo Mẫu số 10/BCĐBQHXII do Hội đồng bầu cử ban hành.
2. Uỷ ban bầu cử gửi Biên bản xác định kết quả bầu cử đến Hội đồng bầu cử, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
3. Hội đồng bầu cử có bộ phận tiếp nhận Biên bản xác định kết quả bầu cử. Địa điểm nộp Biên bản xác định kết quả bầu cử được quy định như sau:
a) Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra phía Bắc nộp Biên bản xác định kết quả bầu cử tại Thủ đô Hà Nội (Văn phòng Quốc hội - 35 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội);
b) Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ thành phố Đà Nẵng trở vào phía Nam nộp Biên bản xác định kết quả bầu cử tại thành phố Hồ Chí Minh (Nhà khách Văn phòng Quốc hội - 194 Hoàng Văn Thụ, Quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh).
Điều 21. Công bố kết quả bầu cử
1. Sau khi nhận và kiểm tra Biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử, Uỷ ban bầu cử và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử lập Biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
2. Căn cứ vào Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước, Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước.
Uỷ ban bầu cử có trách nhiệm tổng kết cuộc bầu cử tại địa phương. Nội dung tổng kết cuộc bầu cử bao gồm:
1. Đánh giá quá trình chuẩn bị cuộc bầu cử:
a) Các bước chuẩn bị bầu cử theo quy định của pháp luật, hướng dẫn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
b) Việc tổ chức tiếp xúc cử tri nơi công tác, nơi cư trú, nơi bầu cử, vận động bầu cử của những người ứng cử đại biểu Quốc hội;
c) Việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác bầu cử của các Ban bầu cử, Tổ bầu cử ở địa phương;
d) Việc tổ chức các Hội nghị hiệp thương;
đ) Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các nội dung của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và các văn bản hướng dẫn bầu cử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
e) Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương trong thời gian chuẩn bị bầu cử và trong ngày bầu cử;
g) Việc xem xét, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến cuộc bầu cử;
h) Sự phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức phụ trách bầu cử và các cơ quan, tổ chức hữu quan;
i) Việc sử dụng kinh phí bầu cử.
2. Những kinh nghiệm từ việc tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI:
a) Việc chuẩn bị các điều kiện cho cuộc bầu cử;
b) Việc chuẩn bị nhân sự ứng cử đại biểu Quốc hội;
c) Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến cuộc bầu cử;
d) Đánh giá về công tác lãnh đạo, chỉ đạo bầu cử ở địa phương.
3. Kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc tổ chức cuộc bầu cử.
Uỷ ban bầu cử gửi Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử tại địa phương đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.