QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
31/2001/QH10
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2001
|
LUẬT
CỦA
QUỐC HỘI 31/2001/QH10 NGÀY 25 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15 tháng 4
năm 1997.
Điều 1. Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội:
1- Điểm 1 Điều 3 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"1- Trung thành với Tổ quốc
và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công
cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;"
2- Khoản 1 Điều 8 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"1- Tổng số đại biểu Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá năm trăm người."
3- Điều 9 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 9
Căn cứ vào số lượng đại biểu Quốc
hội quy định tại Điều 8 của Luật này, căn cứ vào nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội, để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội,
sau khi trao đổi ý kiến với Ban thường trực Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội, chậm nhất là chín mươi lăm
ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến về:
1- Cơ cấu, thành phần đại biểu
Quốc hội;
2- Số lượng đại biểu Quốc hội được
bầu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng
vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương".
4- Bổ sung Điều
10a như sau:
"Điều 10a
Số đại biểu Quốc hội là phụ nữ
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban
chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại
biểu thích đáng."
5- Đoạn thứ nhất của Điều 14 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"Chậm nhất là một trăm lẻ
năm ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử
từ mười lăm đến hai mươi mốt người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký
và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan."
6- Đoạn thứ nhất của Điều 15 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"Chậm nhất là chín mươi lăm
ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử từ bảy đến mười một
người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một
số cơ quan, tổ chức hữu quan."
7- Điều 23 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 23
1- Người đang bị tước quyền bầu
cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải
chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi
dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
2- Người thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều này nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi
bốn giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan
có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự
thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.
3- Người đã có tên trong danh
sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Toà án tước quyền bầu cử, phải
chấp hành hình phạt tù, bị bắt tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn xoá tên người đó trong danh sách cử tri và
thu hồi thẻ cử tri."
8- Khoản 1 Điều 28 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"1- Công dân ứng cử đại biểu
Quốc hội (người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) theo quy định của Luật
này phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là sáu mươi lăm ngày trước ngày bầu cử.
Hồ sơ ứng cử gồm:
a) Đơn xin ứng cử;
b) Sơ yếu lý lịch có chứng nhận
của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó công tác hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi người đó thường trú;
c) Tiểu sử tóm tắt và ba ảnh màu
cỡ 4 cm x 6 cm."
9- Điểm 5 Điều 29 được sửa đổi, bổ sung như
sau:
"5- Người đang chấp hành
quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở
giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Những người đã có tên trong danh
sách ứng cử đại biểu Quốc hội mà đến thời điểm bắt đầu bầu cử bị khởi tố về
hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Hội
đồng bầu cử xoá tên trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội."
10- Đoạn thứ nhất và đoạn thứ hai của Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương lần
thứ nhất ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tổ chức chậm nhất là tám mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, thành phần gồm
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Ban lãnh đạo
các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Hội nghị hiệp thương thoả thuận
về cơ cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung
ương được bầu làm đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội gửi đến. Đại diện Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ
được mời dự Hội nghị này."
11- Đoạn thứ
nhất và đoạn thứ hai của Điều 31 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương lần
thứ nhất ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức chậm nhất là tám
mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, thành phần gồm Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc, đại diện Ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và đại
diện Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
Hội nghị hiệp thương thoả thuận
về cơ cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa
phương được bầu làm đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội gửi đến. Đại diện Uỷ ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân được mời dự Hội nghị này."
12- Điều 32 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 32
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần
thứ nhất quy định tại các điều 30 và 31 của Luật này, chậm nhất là tám mươi
ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu,
thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa
phương được bầu làm đại biểu Quốc hội."
13- Điều 33 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 33
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, căn cứ vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được phân bổ số lượng đại biểu
tiến hành giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội."
14- Đoạn thứ
nhất và đoạn thứ hai của Điều 37 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương lần
thứ hai ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tổ chức chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử, thành phần Hội nghị
như quy định tại Điều 30 của Luật này.
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào
tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
điều chỉnh lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc
hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú."
15- Đoạn thứ
nhất và đoạn thứ hai của Điều 38 được
sửa đổi, bổ sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương lần
thứ hai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức chậm nhất là sáu mươi
ngày trước ngày bầu cử, thành phần Hội nghị như quy định tại Điều 31 của Luật
này.
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào
tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
điều chỉnh lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu
Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú; đối với người tự ứng cử thì còn
được gửi lấy ý kiến cử tri nơi người đó làm việc (nếu có)."
16- Điều 41 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 41
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần
thứ hai quy định tại các điều 37 và 38 của Luật này, chậm nhất là năm mươi ngày
trước ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai cơ cấu,
thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa
phương được bầu làm đại biểu Quốc hội."
17- Đoạn thứ
hai của Điều 42 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương căn cứ
vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được
bầu của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc
hội điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội."
18- Đoạn thứ
hai của Điều 43 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"Hội nghị hiệp thương căn cứ
vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được
bầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội."
19- Điều 49 được bổ sung khoản 3 và khoản 4
như sau:
"3- Không xem xét, giải quyết
đối với những đơn tố cáo nặc danh.
4- Hội đồng bầu cử chuyển toàn bộ
hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội
khoá mới để giải quyết theo thẩm quyền."
20- Đoạn thứ
hai của Điều 54 được sửa đổi, bổ
sung như sau:
"Ngày bầu cử phải là ngày
chủ nhật, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm
lẻ năm ngày trước ngày bầu cử."
Điều 2
1- Luật này có hiệu lực từ ngày
công bố.
2- Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành Luật
này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25 tháng 12
năm 2001.