HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
03/2020/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2020
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG
XÉT XỬ TỘI PHẠM THAM NHŨNG VÀ TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11
năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất một
số quy định của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14
trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi
điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14
(sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự) về
các tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ; xác định trị giá tài sản
bị chiếm đoạt, thiệt hại do tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ gây
ra; xử lý vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm.
Điều 2. Về một
số từ ngữ
1. “Cơ quan, tổ chức” quy định
tại khoản 1 Điều 352 của Bộ luật Hình sự bao gồm cơ quan, tổ
chức, đơn vị nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
2. “Cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà
nước” là cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại khoản 9 Điều
3 của Luật Phòng, chống tham nhũng, bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp
công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập,
đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do
Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển
chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội.
3. “Doanh nghiệp, tổ chức ngoài
nhà nước” quy định tại các điều 353, 354, 364 và 365 của Bộ luật
Hình sự là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản
2 Điều này.
4. “Người có chức vụ” quy định
tại khoản 2 Điều 352 của Bộ luật Hình sự là những người quy
định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng.
5. “Do một
hình thức khác” quy định tại khoản 2 Điều của 352 Bộ luật
Hình sự là trường hợp không phải do bổ nhiệm, do bầu
cử, do tuyển dụng, do hợp đồng nhưng được giao thực hiện nhiệm vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ đó.
Ví dụ: Người được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cử tham gia trực tại chốt kiểm soát phòng chống dịch bệnh
Covid-19.
6. “Chủ động khai báo trước khi
bị phát giác” quy định tại khoản 7 Điều 364 và khoản 6 Điều
365 của Bộ luật Hình sự là trường hợp hành vi phạm tội đưa hối lộ, môi giới
hối lộ chưa bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, chưa bị ai tố giác nhưng người
đưa hối lộ, người môi giới hối lộ đã tự khai báo toàn bộ sự việc đưa hối lộ,
môi giới hối lộ mà mình thực hiện.
7. “Chủ động nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” là trường hợp người phạm tội đã tự
mình nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ sau khi phạm tội.
Cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ
đối với trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội đã tác động để cha, mẹ, vợ,
chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại hoặc không phản đối việc
cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản mà mình tham ô, nhận hối lộ.
Đối với trường hợp trong cùng vụ
án, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội, trong đó có tội tham ô
tài sản, tội nhận hối lộ và tội khác, nhưng đã chủ động nộp lại số tài sản bằng
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ thì cũng được coi là chủ động nộp
lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ, trừ trường hợp có căn cứ rõ
ràng xác định tài sản có nguồn gốc từ tội phạm khác.
Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi tham
ô số tiền 4.000.000.000 đồng và lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt số tiền
2.000.000.000 đồng. Sau khi A bị khởi tố, vợ của A đã chuyển nhượng nhà đất là
tài sản riêng của mình để thay A nộp lại số tiền 3.000.000.000 đồng thì được
coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô.
8. “Hợp tác tích cực với cơ quan
chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” là sau khi phạm tội
tham nhũng hoặc các tội phạm khác về chức vụ, người phạm tội đã chủ động cung cấp
những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, điều tra, xử
lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội (như: chỉ đúng nơi cất giấu
vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo
và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm
tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội...). Ngoài những trường hợp
nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “hợp tác tích cực với cơ
quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” nhưng Tòa án phải
nhận định rõ trong bản án.
9. “Lập công lớn” là
trường hợp người phạm tội đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt,
điều tra, xử lý tội phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội; cứu được
người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ
100.000.000 đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân trong thiên
tai, dịch bệnh, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có phát minh, sáng chế
hoặc sáng kiến có giá trị lớn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “lập
công lớn” nhưng Tòa án phải nhận định rõ trong bản án.
Điều 3. Về một
số tình tiết là dấu hiệu định tội
1. “Đã bị xử lý kỷ luật về hành
vi này mà còn vi phạm” quy định tại điểm a khoản 1 các điều
353, 354, 355 và 358 của Bộ luật Hình sự là trường hợp trước đó người phạm
tội đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tương ứng nhưng chưa hết thời hạn được coi
là chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Nguyễn Văn A đã kỷ luật bằng
hình thức cảnh cáo về hành vi tham ô số tiền 500.000 đồng nhưng 06 tháng sau, A
lại thực hiện hành vi tham ô số tiền 1.500.000 đồng.
Trường hợp người có hành vi vi phạm
đã bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý kỷ luật, sau đó lại bị cơ quan tiến
hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự về chính hành vi này thì việc bị xử
lý kỷ luật trước đó không bị coi là “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn
vi phạm”.
Ví dụ: Nguyễn Văn A đã bị cơ quan
có thẩm quyền xử lý kỷ luật về hành vi tham ô tài sản, sau đó A lại bị xem xét
khởi tố về chính hành vi tham ô này thì không được áp dụng tình tiết “đã bị xử
lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” đối với A.
2. “Đã bị kết án về một trong
các tội quy định tại Mục 1 Chương này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”
quy định tại khoản 1 các điều 353, 354 và 355 của Bộ luật Hình sự
là trước đó người phạm tội đã bị kết án trong 01 lần về một hoặc nhiều tội quy
định tại Mục 1 Chương XXIII của Bộ luật Hình sự, chưa được
xóa án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê tại khoản 1 của một trong các điều 353, 354 và 355 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp ngoài tiền án nêu trên,
người phạm tội còn có tiền án khác thì tiền án này được sử dụng để xác định tái
phạm, tái phạm nguy hiểm, trừ trường hợp các tiền án đều đã được sử dụng để xác
định dấu hiệu định tội trong các lần kết án trước đó.
Ví dụ: Trước khi thực hiện hành vi
phạm tội nhận hối lộ số tiền là 1.500.000 đồng, A đã có 02 tiền án, trong đó tiền
án thứ nhất, A bị kết án về tội tham ô tài sản với số tiền chiếm đoạt là
5.000.000 đồng; tiền án thứ hai, A bị kết án về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản với số tiền chiếm đoạt là 1.000.000 đồng. Trường hợp này, tiền
án thứ hai được sử dụng để xác định dấu hiệu định tội đối với tội tham ô tài sản.
Đối với tiền án thứ nhất, do trước đó đã được sử dụng để xác định dấu hiệu định
tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (với số tiền chiếm đoạt là
1.000.000 đồng) nên không được tiếp tục sử dụng để xác định tái phạm.
3. “Lợi ích vật chất khác”
quy định tại các điều 354, 358, 364 và 366 của Bộ luật Hình sự
là lợi ích vật chất không phải là tài sản quy định tại Điều 105
của Bộ luật Dân sự.
Ví dụ: Hối lộ bằng cách tài trợ
kinh phí đi du học, đi du lịch, ...
4. “Lợi ích phi vật chất”
quy định tại điểm b khoản 1 các điều 354, 358, 364, 365 và 366
của Bộ luật Hình sự là những lợi ích không phải lợi ích vật chất.
Ví dụ: Hối lộ bằng cách tặng thưởng,
đề xuất tặng thưởng các danh hiệu, giải thưởng; bầu, cử, bổ nhiệm chức vụ; nâng
điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước
ngoài; hối lộ tình dục, ...
5. “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn”
quy định tại khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Hình sự là sử dụng
vượt quá quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao hoặc tuy không được giao,
không được phân công nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực đó nhưng vẫn thực hiện.
Ví dụ: Nguyễn Văn A là Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh. A chỉ được phân công phụ trách lĩnh vực văn hóa - xã hội,
không được phân công phụ trách lĩnh vực quản lý đất đai nhưng A vẫn ra quyết định
thu hồi đất của Công ty X để giao cho Công ty Y (là Công ty của gia đình A). Trường
hợp này hành vi của A đã vượt quá chức trách, nhiệm vụ được giao.
6. “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”
quy định tại khoản 1 Điều 356 của Bộ luật Hình sự là dựa
vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy
định của pháp luật.
Ví dụ: Nguyễn Văn A là Trưởng phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện B đã thực hiện hành vi trái công vụ, trình lãnh
đạo Ủy ban nhân dân huyện B ký quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối
với thửa đất không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật đất đai.
7. “Vụ lợi” quy định tại khoản 1 các điều 356, 357 và 359 của Bộ luật Hình sự là trường
hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền nhằm đạt được
lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng cho mình hoặc cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
8. “Động cơ cá nhân khác”
quy định tại khoản 1 các điều 356, 357 và 359 của Bộ luật Hình
sự là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền
nhằm khẳng định, củng cố, nâng cao địa vị, uy tín, quyền lực của mình một cách
không chính đáng.
9. Thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra quy định tại các điều 353, 354, 355
và 358 của Bộ luật Hình sự là thiệt hại thực tế xảy
ra và có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội, không bao gồm tiền, tài sản,
lợi ích vật chất khác mà người phạm tội đã hoặc sẽ chiếm đoạt.
Ví dụ: Nguyễn Văn A là Thủ kho của
Công ty B có hành vi tham ô số tiền thuốc phòng dịch trị giá 200.000.000 đồng.
Do không có thuốc phòng dịch nên dẫn đến hậu quả là toàn bộ số gia cầm trị giá
10.000.000.000 đồng của Công ty B bị chết. Trong trường hợp này, phải xác định
số tiền A chiếm đoạt là 200.000.000 đồng và thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội
của A là 10.000.000.000 đồng.
10. “Bí mật công tác” quy định
tại Điều 361 và Điều 362 của Bộ luật Hình sự là thông tin
công tác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào (ví dụ: văn bản, dự thảo văn bản,
bài phát biểu, hình ảnh...) mà cơ quan, tổ chức quy định không được để lộ cho
người khác biết và các thông tin này không thuộc danh mục bí mật nhà nước.
Điều 4. Về một
số tình tiết định khung hình phạt
1. Tình tiết “dùng thủ đoạn xảo
quyệt” hoặc “dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại khoản
2 các điều 353, 354, 355, 364 và 365 của Bộ luật Hình sự:
a) “Dùng thủ đoạn xảo quyệt”
là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng
công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người
khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc
phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.
b) “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”
là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng,
sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt
tài sản hoặc che giấu tội phạm.
2. Tình tiết “phạm tội 02 lần trở
lên” quy định tại khoản 2 các điều 353, 354, 355, 356, 357,
358, 361, 364, 365 và 366 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội
đã thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điều này từ 02 lần trở lên
và mỗi hành vi đều cấu thành tội phạm, nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Ngày 15-8-2018, Nguyễn Văn A
có hành vi tham ô số tiền 10.000.000 đồng. Ngày 25-9-2019, A lại có hành vi
tham ô số tiền 20.000.000 đồng. Các hành vi phạm tội của A đều chưa bị xử lý
hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp này, A bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản và bị áp dụng tình tiết “phạm
tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 353 của
Bộ luật Hình sự.
3. Tình tiết “ảnh hưởng xấu đến
đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ
chức” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 353 của Bộ luật Hình
sự là một trong các trường hợp sau:
a) Làm mất hoặc giảm sút thu nhập
thường xuyên, thu nhập tăng thêm hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động;
b) Gây khiếu nại, tố cáo bức xúc,
làm mất đoàn kết, mất niềm tin trong nội bộ cơ quan, tổ chức ảnh hưởng đến tinh
thần của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
4. Tình tiết “gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại khoản 3 các điều 353, 355 của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau:
a) Gây khiếu kiện đông người, biểu
tình, gây rối để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động chống phá
chính quyền, xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước;
b) Gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn
nộ trong nhân dân;
c) Gây khó khăn trong việc thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ví dụ: Nguyễn Văn A tham ô tiền hỗ
trợ người nghèo phát triển kinh tế dẫn đến Ủy ban nhân dân xã B gặp khó khăn
trong việc triển khai chính sách xóa đói, giảm nghèo tại địa phương.
Điều 5. Nguyên
tắc xử lý đối với tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ
1. Việc xử lý tội phạm tham nhũng,
tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các
nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.
2. Trong quá trình tố tụng, người
phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư
tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong
việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không áp dụng mức
cao nhất của khung hình phạt mà người phạm tội bị truy tố, xét xử.
3. Xem xét áp dụng chính sách khoan
hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 của Bộ luật
Hình sự đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hoặc người
phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không
đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Người phạm tội không vì động cơ
vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
b) Người phạm tội là người có quan
hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp
hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm
tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng
lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan
có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm;
c) Người phạm tội đã chủ động khai
báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần
hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục
toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra;
d) Người phạm tội sau khi bị phát
hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản
chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do
mình gây ra.
Điều 6. Xem xét
trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt trong trường hợp tách vụ án
Trường hợp vụ án được tách ra để giải
quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) thì việc xem xét
trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt được thực hiện như sau:
1. Không coi việc người phạm tội đã
bị kết án trong vụ án trước đó là căn cứ xác định “phạm tội 02 lần trở lên”, trừ
trường hợp các hành vi phạm tội bị xem xét, xử lý hình sự trong các giai đoạn
là độc lập với nhau;
2. Không coi việc người phạm tội đã
bị kết án trong vụ án trước đó là có nhân thân không tốt để không cho hưởng án
treo, nếu họ có đủ các điều kiện khác để được hưởng án treo;
3. Việc quyết định hình phạt trong
từng bản án, quyết định phải bảo đảm khi tổng hợp hình phạt của các bản án không
được vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt tương ứng với tổng trị giá tài sản
bị chiếm đoạt, của hối lộ hoặc thiệt hại do tội phạm gây ra.
Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi lạm
quyền trong thi hành công vụ. Do bước đầu chỉ chứng minh được A gây thiệt hại
tài sản trị giá 100.000.000 đồng nên cơ quan tiến hành tố tụng đã quyết định
tách thành 02 vụ án, xử lý trước đối với A về hành vi gây thiệt hại số tiền
100.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó ở giai đoạn 2 cơ quan tiến hành tố tụng lại
chứng minh được hành vi của A còn gây thiệt hại tài sản trị giá 350.000.000 đồng.
Tại giai đoạn 1, Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 357 của Bộ luật
Hình sự kết án A 05 năm tù về tội lạm quyền trong thi hành công vụ. Khi xét
xử vụ án ở giai đoạn 2, A tiếp tục bị truy tố theo khoản 2 Điều
của 357 của Bộ luật Hình sự, để bảo đảm khi tổng hợp hình phạt của cả 02 bản
án không vượt quá mức cao nhất của khoản này thì Tòa án chỉ được quyết định
hình phạt không quá 05 năm tù đối với A.
Điều 7. Truy cứu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp người sử dụng tài sản do tham nhũng mà có
để thực hiện một trong các hành vi rửa tiền
Trường hợp người sử dụng tài sản do
tham nhũng mà có để thực hiện một trong các hành vi rửa tiền quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự thì ngoài việc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm tương ứng quy định tại Chương
XXIII của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội rửa tiền theo quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình
sự.
Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi tham
ô số tiền 5.000.000.000 đồng, sau đó A dùng số tiền này đầu tư, kinh doanh bất
động sản để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của số tiền đã tham ô. Trường hợp
này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản quy định tại Điều 353 và tội rửa tiền quy định tại Điều 324
của Bộ luật Hình sự.
Điều 8. Truy cứu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi
quy định tại Chương XXIII của Bộ luật Hình sự
1. Trường hợp một người thực hiện
nhiều lần cùng một loại hành vi quy định tại Chương XXIII của Bộ
luật Hình sự, nhưng mỗi lần trị giá tài sản chiếm đoạt, của hối lộ, gây thiệt
hại về tài sản dưới mức tối thiểu quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự và
không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng
thời trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử lý kỷ luật và chưa hết thời hiệu
xử lý kỷ luật, nếu tổng trị giá tài sản chiếm đoạt, của hối lộ hoặc thiệt hại bằng
hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi vi phạm bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng trị giá tài sản chiếm đoạt
tài sản, của hối lộ hoặc tài sản thiệt hại.
Ví dụ: Ngày 15-8-2019, Nguyễn Văn A
có hành vi nhận hối lộ số tiền 1.500.000 đồng; ngày 15-9-2019, A tiếp tục nhận
hối lộ số tiền 1.500.000 đồng; ngày 30-12-2019, A lại tiếp tục nhận hối lộ số
tiền 1.500.000 đồng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Các hành vi này của A đều
chưa bị xử lý kỷ luật và chưa hết thời hiệu xử lý kỷ luật. Trường hợp này, tổng
số tiền nhận hối lộ của A được xác định là 4.500.000 đồng nên A bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 354 của Bộ luật
Hình sự.
2. Trường hợp một người thực hiện
nhiều lần cùng một loại hành vi quy định tại Chương XXIII của Bộ
luật Hình sự, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm và tổng trị giá tài
sản chiếm đoạt, của hối lộ hoặc tài sản thiệt hại của các lần vi phạm thuộc
khung hình phạt tăng nặng, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị
áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt, của hối
lộ hoặc tài sản thiệt hại, họ còn bị áp dụng tình tiết định khung tặng nặng hoặc
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:
a) Nếu tổng trị giá tài sản chiếm
đoạt, của hối lộ hoặc tài sản thiệt hại thuộc khoản 2 của điều luật tương ứng
thì người phạm tội bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội 02
lần trở lên”.
Ví dụ: Ngày 15-8-2019, Nguyễn Văn A
có hành vi nhận hối lộ số tiền 50.000.000 đồng; ngày 30-6-2020, A lại tiếp tục
nhận hối lộ số tiền 100.000.000 đồng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Trường
hợp này, A bị áp dụng 02 tình tiết tăng nặng định khung là: “của hối lộ là
tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng” và “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm c và điểm đ khoản 2 Điều 354 của Bộ luật Hình sự.
b) Nếu tổng trị giá tài sản chiếm đoạt
hoặc của hối lộ nhận hoặc tài sản thiệt hại thuộc khung hình phạt tăng nặng
khác thì người phạm tội bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“phạm tội 02 lần trở lên”.
Ví dụ: Ngày 11-3-2019, Nguyễn Văn A
có hành vi nhận hối lộ số tiền 400.000.000 đồng; ngày 30-7-2020, A lại tiếp tục
nhận hối lộ số tiền 200.000.000 đồng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Trường
hợp này, A bị áp dụng tình tiết tặng nặng định khung "của hối lộ là tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng" theo quy định tại điểm a khoản 3
Điều 354 và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở
lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật
Hình sự.
Điều 9. Truy cứu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội vừa chiếm đoạt tài sản, nhận
của hối lộ vừa gây thiệt hại về tài sản
Trường hợp người phạm tội vừa chiếm
đoạt tài sản, nhận của hối lộ, vừa gây thiệt hại về tài sản mà trị giá tài sản
chiếm đoạt, của hối lộ và trị giá tài sản thiệt hại thuộc các điểm trong cùng một
khung hình phạt thì truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo các điểm
tương ứng của khung hình phạt đó. Trường hợp trị giá tài sản chiếm đoạt, của hối
lộ và trị giá tài sản thiệt hại thuộc các khung hình phạt khác nhau thì truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khung hình phạt cao hơn.
Điều 10. Xác định
trị giá tài sản bị chiếm đoạt, thiệt hại do tội phạm tham nhũng, tội phạm khác
về chức vụ gây ra
1. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt
làm căn cứ xử lý hình sự được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp tội phạm thực hiện liên tục, kéo dài thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt
được xác định tại thời điểm kết thúc hành vi phạm tội. Đối với trường hợp hành
vi phạm tội đang diễn ra nhưng bị phát hiện, ngăn chặn thì trị giá tài sản bị
chiếm đoạt được xác định tại thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, ngăn chặn.
2. Thiệt hại tài sản làm căn cứ để
xử lý hình sự tùy từng trường hợp cụ thể được xác định như sau:
a) Trường hợp thiệt hại xảy ra tại
thời điểm tội phạm được thực hiện thì thiệt hại được xác định tại thời điểm
này; đối với tội phạm liên tục, kéo dài thì thiệt hại được xác định tại thời điểm
tội phạm được phát hiện ngăn chặn hoặc tội phạm kết thúc.
b) Trường hợp thiệt hại xảy ra hoặc
kéo dài sau khi tội phạm được thực hiện hoặc sau khi tội phạm đã kết thúc thì
thiệt hại được xác định tại thời điểm thiệt hại được ngăn chặn.
c) Trường hợp không thể xác định được
thiệt hại theo hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này thì thiệt hại được
xác định tại thời điểm khởi tố vụ án.
3. Việc xem xét trách nhiệm dân sự
thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
Điều 11. Xử lý
vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm
1. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phải
xem xét áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản liên quan
trực tiếp đến hành vi phạm tội nếu các tài sản này chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế trong giai đoạn điều tra, truy tố.
2. Tòa án xem xét, quyết định tịch
thu sung vào ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu hủy hoặc buộc trả lại, bồi thường
cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật đối với
tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ,
bao gồm:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc
phạm tội;
b) Tiền, tài sản bị chiếm đoạt;
c) Của hối lộ;
d) Thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra;
đ) Khoản thu lợi bất chính từ hành
vi phạm tội;
e) Lợi nhuận, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản do phạm tội mà có;
g) Tài sản khác theo quy định của
pháp luật.
3. Tài sản thuộc trường hợp bị tịch
thu sung ngân sách nhà nước không còn tại thời điểm giải quyết vụ án thì Tòa án
quyết định tịch thu trị giá tài sản theo kết luận định giá của cơ quan có thẩm
quyền.
4. Trường hợp tài sản có nguồn gốc
từ tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ đã được nhập vào khối tài sản
thuộc sở hữu chung thì Tòa án chỉ tịch thu hoặc buộc trả lại cho chủ sở hữu,
người quản lý hợp pháp đối với phần tài sản có nguồn gốc từ tội phạm. Lợi nhuận
thu được từ khối tài sản chung này cũng được chia theo tỷ lệ để tịch thu hoặc
trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 12. Hiệu
lực thi hành
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 30 tháng 12 năm 2020 và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2021.
2. Trường hợp người phạm tội đã bị
xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn
trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết
này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để giám
sát);
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (để giám sát);
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để giám sát);
- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;
- Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo);
- Văn phòng Trung ương Đảng (để báo cáo);
- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp (để phối hợp);
- Bộ Công an (để phối hợp);
- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC (để thực hiện);
- Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.
|
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|