Nghị định 59-HĐBT năm 1991 quy định các hoạt động tôn giáo do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 59-HĐBT
Ngày ban hành 21/03/1991
Ngày có hiệu lực 21/03/1991
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Đỗ Mười
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 59-HĐBT

Hà Nội, ngày 21 tháng 03 năm 1991 

 

NGHỊ ĐỊNH

 

QUY ĐỊNH VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 04-7-1981;
Để đáp ứng nhu cầu hoạt động tôn giáo của đồng bào các tôn giáo;
Theo đề nghị của Trưởng Ban tôn giáo của Chính phủ,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1:

NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.

Điều 2. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ công dân.

Điều 3. Các hoạt động tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp và Luật pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 4. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân được khuyến khích.

Điều 5. Mọi hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập dân tộc, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Chương 2:

NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ

Điều 6. Mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do đó đều bị xử lý theo pháp luật.

Điều 7. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương chính sách và luật pháp của Nhà nước; có quyền tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo tại nơi thờ tự. Không được truyền bá mê tín dị đoan, không cản trở việc lao động sản xuất, học tập và thi hành nghĩa vụ công dân.

Điều 8. Những hoạt động tôn giáo thông thường tại nơi thờ tự (như các buổi cầu nguyện, hành lễ, giảng đạo, dạy giáo lý…) theo tập quán tôn giáo tại địa phương và theo chương trình đăng ký hàng năm thì không phải xin phép.

Những hoạt động tôn giáo bất thường hoặc vượt ra ngoài tập quán thông thường thì phải có sự chấp thuận của chính quyền.

Điều 9. Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung từ nhiều cơ sở dòng tu của đạo Thiên chúa, các lớp bồi linh của mục sư và truyền đạo của đạo Tin lành, các kỳ an cư kiết hạ của tăng nghiệp đạo Phật, và những sinh hoạt tôn giáo tương tự của các tôn giáo khác… phải xin phép Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc cấp hành chính tương đương.

Điều 10. Đại hội theo nhiệm kỳ và hội nghị toàn quốc của các tổ chức tôn giáo cấp toàn quốc, từng miền hoặc từng vùng phải xin phép Hội đồng Bộ trưởng.

Điều 11. Nơi thờ tự của tôn giáo được Nhà nước bảo hộ; các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm bảo vệ, tu bổ. Những công việc sửa chữa, cơi nới làm thay đổi kiến trúc công trình phải được Ủy ban Nhân dân tỉnh, hoặc cấp hành chính tương đương chấp thuận.

Điều 12. Ở các khu vực dân cư đã ổn định và vùng kinh tế mới, nếu các tín đồ có nhu cầu xin xây dựng nơi thờ tự thì phải xin phép Ủy ban Nhân dân tỉnh hoặc cấp hành chính tương đương xem xét, quyết định.

Điều 13. Những nơi thờ tự của tôn giáo đã được xếp hạng theo quy định của ngành văn hóa vẫn được bảo đảm việc hành đạo bình thường của chức sắc, nhà tu hành và tín đồ.

Điều 14. Giáo hội các tôn giáo được phép in, xuất bản các loại kinh, sách tôn giáo, sản xuất hoặc nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo theo các quy chế về in, xuất bản, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm của Nhà nước.

Cấm lưu hành, tàng trữ những sách báo, văn hóa phẩm có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc và chống lại chế độ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trái pháp luật, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc và nhân dân.

Điều 15. Các chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội như mọi công dân khác. Việc tổ chức lao động, sản xuất làm dịch vụ để cải thiện đời sống tại nơi tu hành, hoặc để xây dựng quỹ bảo dưỡng, trùng tu nơi thờ tự thì được khuyến khích và  theo đúng chính sách, luật pháp của Nhà nước.

Điều 16. Các chức sắc, nhà tu hành và các tổ chức tôn giáo được hoạt động từ thiện trong những lĩnh vực được Nhà nước cho phép. Những cơ sở hoạt động từ thiện hiện do tôn giáo bảo trợ được tiếp tục hoạt động theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng của Nhà nước.

[...]